Mùa thunăm tôi mười hai tuổi.
Tôi,Thích Không sư huynh và Hỷ Lạc có ý đồ vượt tường ra khỏi chùa. Thích Không sưhuynh tự chế ra một công cụ, chúng tôi gọi là móc lật ngói, Thích Không sưhuynh thì gọi là Phi thiên câu. Nguyên lý của công cụ này là một sợi dây thừngkéo theo một cái móc. Thích Không sư huynh cảm thấy đây là thứ ám khí đầu tiêndo một thiếu niên chế tạo, mà bấy giờ chúng tôi gọi những người có tay nghề tốtlại có khả năng phát minh công cụ là các “chế tác gia”, cho nên Thích Không tựphong mình là chế tác gia thiếu niên. Nhưng Phi thiên câu bị tôi và Hỷ Lạc chêcười. Chúng tôi cảm thấy đã gọi là ám khí thì nhất định phải có tính ám muội,trong khi Phi thiên câu quá to, giắt ở cạp quần, người không biết chân tướngchắc chắn sẽ nghĩ gã này là tay mổ lợn. Vả lại, tác dụng của ám khí là dùng đểgiết người thì ít ra cũng có thể khiến người ta bị thương, còn Phi thiên câuthực ra dùng để trèo tường, huống hồ, các công cụ trèo tường kiểu như Phi thiêncâu đã có từ lâu rồi, lại rất phổ biến trong giới hiệp khách và bọn trộm cắp,thậm chí còn dẫn đến cuộc cách mạng về thiết kế phòng ốc, tức là phần đầu củacác bức tường cao sẽ không còn được cố định nữa, thay vào đó là các lớp ngóilỏng lẻo, như vậy những thứ kiểu như móc câu sẽ chẳng có cách nào bám chặtđược. Cho nên tôi cảm thấy Thích Không sư huynh có khả năng sáng tạo độc lập,Hỷ Lạc bảo Thích Không sư huynh chỉ biết sao chép mà thôi.
Lờibiện giải của Thích Không sư huynh là: Huynh không sao chép của người khác, tuyhuynh từng thấy chiếc móc leo tường, và cũng rất thích nó, nhưng móc câu nàycủa huynh không giống những cái kia. Cho dù hình dạng na ná, nhưng đệ xem, cáiđó có bốn móc, cái này của huynh chỉ có ba móc, vả lại kiểu thắt nút giữa dâythừng và móc câu của người ta là kiểu thắt chết, còn cái của huynh là thắt nútbướm. Quan trọng nhất là tên gọi không giống nhau, thứ kia tên là móc trèotường, còn cái này là Phi thiên câu, như vậy sao có thể gọi là sao chép được.
Vì việcnày, chúng tôi còn đến trước mặt sư phụ nhờ người phán quyết. Sư phụ nhìn qua,phán rằng: Ta nghe Thích Nhiên và Hỷ Lạc bảo con tự phát minh ra được thứ này,song lại nói là con chỉ sao chép thôi, nên ta rất lo lắng, đã phải xem xét kỹcàng, lại còn mua một chiếc móc leo tường của triều đại trước để so sánh, giờthì ta yên tâm rồi, chiếc móc này cùng lắm là có tham khảo chiếc móc kia thôi,không thể nói là sao chép nguyên xi được.
Sư phụlại nói với tôi và Hỷ Lạc: Hỷ Lạc! Thích Nhiên! Sư huynh các con làm ra thứ nàychẳng dễ dàng gì, tuy có hơi lạc hậu, không thể leo lên được những bước tườnghiện nay, song ít nhất vẫn có thể leo cây, các con cũng cứ yên tâm phát minhđi, nhớ là phải tự động não, mấy năm nay giang hồ yên ắng, trăm họ an cư lạcnghiệp, các con càng phải cố gắng tích lũy kinh nghiệm, tới thời buổi loạn lạcthế nào cũng có chỗ phát huy. Mấy năm nay ám khí phát triển đến chóng mặt,nhưng những ám khí chính thống thì đều có những công cụ phòng ngừa chính thống,chỉ có thứ mình tự tạo ra mới có thể bất ngờ khắc chế kẻ địch giành được chiếnthắng mà thôi.
Tôiđáp: Thưa sư phụ! Đó chẳng phải là thứ tà môn ngoại đạo Thiếu Lâm luôn bài xíchsao ạ?
Sư phụ nói:Không phải! Đây là bàng môn tả đạo.
Tôiđáp: Vậy thế nào là tà môn ngoại đạo?
Sư phụtôi trả lời: Những thứ ám khí Võ Đang làm ra đều là tà môn ngoại đạo.
Tôi vàHỷ Lạc đều “ồ” lên một tiếng.
Hôm đósư phụ giữ sư huynh Thích Không lại, tôi và Hy Lạc ra ngoài trước. Tôi bảo HỷLạc, sư phụ chắc đang quở trách sư huynh. Hỷ Lạc nói, chưa chắc.
Kết quảthật bất ngờ, Thiếu Lâm quyết định sản xuất hàng loạt Phi thiên câu để tích lũynguồn vốn, mở rộng chùa chiền. Tôi tỏ ra hoài nghi, không biết thứ ấy có bánđược không? Hỷ Lạc đáp, chắc chắn có thể bán được. Kết quả là bán được thật,mọi người phát hiện ra chiếc Phi thiên câu này ngoại trừ việc không thể bay lêngiời ra thì dùng vào việc nào cũng được, trẻ con dùng để leo cây, các bà các mợdùng để buộc con lại, ở nhà có thể dùng cột chó, chập ba bốn chiếc móc lên lưngtrâu còn có thể cắt cỏ trên đồng, người bán thịt lợn có thể dùng để treo thịt,xe ngựa hỏng có thể dùng làm dây kéo xe, tóm lại có thể gói gọn trong hai từ“quá đỉnh”, lại thêm mác Thiếu Lâm sản xuất, lấy uy tín đảm bảo, cho nên rấtđắt hàng.
Cứ bánnhư vậy chừng một tuần, tự dưng có ông già chín mươi sáu tuổi đến nha môn gõtrống kêu oan, bảo rằng Phi thiên câu không phải thứ do Thiếu Lâm phát minh màlà thứ do ông ta đã thử nghiệm thành công từ triều đại trước, tuy chưa cho sảnxuất hàng loạt, nhưng vẫn luôn giao dịch ngầm, thậm chí từng tạo nên cơn sốttrèo tường một độ, giờ Thiếu lâm ngang nhiên ăn cắp ý tưởng, mong rằng ThiếuLâm có thể gửi lời xin lỗi đến ông, bồi thường và đổi cho chắt của ông ta làThích Thối, một pháp danh nghe lọt tai hơn.
Vị thẩmphán hỏi: Ông bảo Phi thiên câu do ông phát minh, lấy gì làm chứng?
Ông giàtrả lời: Đại quan còn nhỏ, không biết được lịch sử thời đó đâu, trong giới hiệpkhách thời bấy giờ móc câu rất thịnh hành, đại quan có thể đi hỏi các vị tiềnbối, bằng không giờ xem sách sử cũng được.
Vị thẩmphán hỏi: Vậy trước đây ông làm nghề gì?
Ông giàđáp: Thảo dân trước đây là nhà chế tạo.
Vị thẩmphán hỏi: Vậy ông chế tạo những thứ gì?
Ông giàđáp: Cả đời tôi chỉ chế tạo được mỗi cái móc câu này. Nhưng về sau bờ tường nócmái đều thay đổi cả, móc câu của tôi trở nên vô dụng.
Sự việcsau đó truyền đến nha môn, Thiếu Lâm về cơ bản chẳng có ai đi, nhưng vẫn dànhòa được sự việc, kết quả phía nha môn cho rằng, vì Phi thiên câu của Thiếu Lâmbán được mấy triệu chiếc, còn móc leo tường từ triều trước của ông già quathống kê chỉ bán được chừng sáu nghìn dây, nên không thể khép vào tội vi phạmbản quyền. Tuy tạo hình của hai bên cơ bản giống nhau, nhưng vì tên gọi khácbiệt, cho nên được phán xét là hai vật khác nhau, động cơ của ông già là muốnthay đổi pháp danh cho cháu mình, thấy lợi tối mắt nên bị khép tội vu cáo. Vảlại vì móc trèo tường từ triều trước chưa đăng ký thương hiệu, nên phán ông giàkia đã tạo thành phẩm, tuy tên của hai vật khác nhau, nhưng tạo hình cơ bản lạitương tự, rõ ràng là vật sao chép. Hơn nữa tuy Thiếu Lâm cho sản xuất móc câuhàng loạt đem bán lấy tiền, nhưng không phải để kiếm chác, mà để xây sửa chùachiền, việc làm này của ông già là báng bổ thần thánh. Niệm tình ông già tuổitác đã cao, miễn khỏi phạt roi, chỉ bắt đi diễu phố ở quảng trường phía Namthành nửa ngày mà thôi.
Phươngtrượng biết việc này liền đùng đùng nổi giận, căn vặn xem ai đã cầu cạnh bọnnha môn. Tôi đáp: Ông ơi! Lần này Thiếu Lâm thắng kiện là tốt lắm rồi, tuynhiên ông già kia có hơi đáng thương thật.
Phươngtrượng nói: Một tay giang hồ chế tạo ám khí, sống ngót nghét trăm năm, lẽ nàothật sự chỉ vì một cái móc câu mà kiện lên tận nha môn? Ai biết được hắn là ai.Con chỉ nhìn thấy trước mắt mà không biết nhìn xa.
Tôitưởng tượng hôm diễu phố chắc chắn cát đá sẽ bất thình lình bay mù mịt, sau khimọi người mở mắt ra, ông già kia đã không thấy đâu nữa, chỉ có tôi là thấy rõcâu chuyện diễn ra thế nào. Song sự việc lại đơn giản hơn những gì tôi nghĩ.Ngay khi ở trong lao ông già đã biến mất. Và tận ba năm sau cũng không thấy tămhơi.
Phithiên câu đã kích thích ham muốn chế tạo ám khí của sư huynh Thích Không. Ởtrong chùa bao năm, kỳ thực võ công của tôi và huynh ấy chẳng thua kém nhaunhiều, song vì tôi có thể quan sát rõ hơn huynh ấy, cho nên huynh ấy toàn thuatôi. Tôi không thích chế tạo ám khí cho lắm, bởi tôi cảm thấy tốc độ bay củamọi ám khí trên thế giới này đều quá chậm chạp, tôi nhìn thấy ám khí ngườithường phóng về phía tôi, cảm giác lề rề như thể đang nhìn chiếc lông vũ dật dờchao xuống vậy. Song thích không thì khác, huynh ấy cảm thấy giắt trên mình mộtđống ám khí sẽ rất lợi hại. Và quả thực là như thế, giả như bạn chỉ có một thứám khí thì khi giao đấu với cao thủ tất nhiên sẽ bại, nhưng nếu khắp người bạngiắt đầu ám khí, tên cao thủ nào đó đấm bạn một cái, có khi chẳng may lại đấmtrúng vào ám khí, thế là bạn thắng. Đây là thứ ám khí mờ ám nhất trong số cácám khí, mặc dù chẳng có ai cố ý cả.
ThíchKhông thường chỉ thay đổi mức độ nặng nhẹ của những loại ám khí đã có sắn, rõràng là thiếu sức tưởng tượng. Song dạo gần đây huynh áy đột nhiên phát hiện ragiá thành chi phí cho việc chế tạo ám khí quá lớn, về cơ bản, những loại ám khígiết người đều một đi không trở lại, như vậy sẽ rất lãng phí, nếu muốn làm thìphải làm ra thứ ám khí có thể thu hồi để tái sử dụng mới được. Nếu ra tay chuẩnxác, ám khí sẽ găm vào trong thịt, khi rút ra hẳn nhiên sẽ rất tiện, nếu taytrơn, ám khí chệch đi, tìm lại sẽ rất khó khăn, vả lại ám khí hiện đại hóa cóxu thế ngày một thu nhỏ lại, còn bàn tay của những người tập võ thời hiện đạicũng có xu thế ngày một tròn, cho nên việc cần kíp trước mắt chính là việc táisử dụng ám khí.
Tôinói: Ném xong rồi đi nhặt về là được.
Hỷ Lạcnói: Thế thì mất mặt lắm, đánh nhau xong lại ra lần tìm khắp nơi nữa à. Ngườikhông biết còn tưởng đi nhặt răng đấy!
Ý củasư huynh Thích Không là: Hiện trong dân gian vừa xuất hiện một thứ tên là dâykhứ hồi, tên khoa học là dây thun, nếu buộc vào ám khí, sau khi phi ra chắcchắn có thể thu lại được.
Hỷ Lạcnói: Vậy làm sao mua được thứ đó đây? Mua thứ đó thể nào? Nhị vị sư huynh nếukhông được phép tùy tiện ra ngoài kia mà.
ThíchKhông nói: Có thể trốn ra.
Hỷ Lạcnói: Phi thiên câu của huynh không thể trèo tường mà!
ThíchKhông nói: Không sao, huynh cải tiến được một chút rồi, giờ đã có thể trèotường được.
Tôi vàHỷ Lạc nói rằng chúng tôi đều hết sức ngỡ ngàng trước tốc độ cải tiến ám khícủa sư huynh.
ThíchKhông nói: Huynh nối thêm năm mươi thước dây cho chiếc Phi thiên câu.
Tôihỏi: Vậy có tác dụng gì?
ThíchKhông nói: Đệ tưởng tượng mà xem, tường ngói hiện giờ đâu thể móc chặt vàođược, vậy nếu dây dài hơn một chút, có thể móc vào cây phía ngoài tường, sau đóđu lên tường là leo ra ngoài được rồi còn gì?
Tôi hếtsức thần phục, nhưng lại hỏi: Vậy quay về thế nào?
ThíchKhông đáp: Chẳng thế nào cả, huynh địu theo “giá vịn tường”.
Hỷ Lạchỏi: Vậy làm thế nào để nhảy từ trên tường xuống đất?
ThíchKhông nói: Đơn giản thôi, huynh mang theo “giày tiếp đất”.
Tôihỏi: Hai thứ ấy rốt cuộc là thứ gì vậy?
ThíchKhông trả lời: Là hai thứ huynh chế ra, đến lúc đó đệ và muội sẽ biết. Giờ phảitranh thủ càng sớm càng tốt, bởi giữa tháng có cuộc triển lãm ám khí giang hồ,huynh muốn nhân cơ hội này tham gia tỉ thí.
Hỷ Lạcnói: Vậy đi ngay đêm nay đi!
Tôinói: Được, nhưng Hỷ Lạc phải ở lại chùa.
Hỷ Lạcrối rít phản đối: Không được, muội sợ đau lắm, sư phụ mà đánh là muội sẽ khaingay ra các huynh đi đâu đấy. Các huynh phải cho muội đi cùng, như vậy mới cóthể diệt khẩu.
ThíchKhông hỏi tôi: Từ “diệt khẩu” được dùng như vậy à?
Tôiđáp: Không rõ! Nhưng mang Hỷ Lạc theo cũng được. Bằng không lại để một nhânchứng sống ở lại chùa.
ThíchKhông hỏi Hỷ Lạc: Từ “nhân chứng sống” được dùng như vậy à?
Hỷ Lạcđáp: Không nói chuyện với huynh nữa, huynh ngố lắm, dù sao canh ba đêm nay, mọingười cũng phải tập hợp ở chỗ giếng cổ góc Tây Bắc chùa.
Chúngtôi đều nhất trí.
Canhba, Quanh giếng không một bóng người.
Sángsớm tinh mơ ngày hôm sau, ba chúng tôi tập hợp, Hỷ Lạc hỏi tôi: Tối hôm qua cótới đó không?
Tôi trảlời không, rồi hỏi Hỷ Lạc có tới không, Hỷ Lạc cũng trả lời không. Không biếtsư huynh Thích Không có tới đó không, sư huynh gặp chúng tôi, tỏ vẻ có lỗi, hỏichúng tôi có đến đó không, chúng tôi trả lời không, sư huynh nói: May quá,huynh cũng không đến. Mọi người đều không đến thì tốt rồi.
Hỷ Lạcphàn nàn, canh ba con gà chưa gáy, làm sao biết được lúc nào là canh ba.
Tôinói: Đệ cũng chẳng biết gì cả. Nghe tiếng gà gáy đệ mới thức dậy.
ThíchKhông nói: Huynh còn dậy muộn hơn. Sư phụ gọi huynh mới dậy. Tối qua hưng phấnquá, huynh không ngủ được, đến canh ba mới ngủ.
Hỷ Lạcnói: Hôm nay thế này đi, chúng ta theo dõi xem khi nào phòng sư phụ tắt đèn,đợi một tuần hương sau đó tập hợp.
Kết quảlại thất bại, bởi sư phụ cả đêm không tắt đèn. Hôm sau cả ba chúng tôi đều sưnghúp mắt, ngái ngủ thôi rồi, đây là lần đầu tiên kể từ khi sinh ra chúng tôithức suốt đêm không ngủ, mãi đến khi trời sáng, sư phụ đi ra thấy chúng tôitrông rất lạ, liền nói: Tối qua sư phụ nghiền ngẫm kinh sử, càng đọc càng mêmẩn, bèn thức luôn cả đêm, không ngờ các con cũng ngủ không ngon giấc, bốnngười chúng ta đúng là có duyên thật đấy, đây chính là sự tương ứng nơi tâmlinh mà sách Phật hằng nói đây mà ha ha ha!
Cả bachúng tôi đều rất ấm ức, thứ nhất là chúng tôi đã phải trông đèn suốt đêm, sauđó lại không thể tiết lộ âm mưu tuyệt mật với sư phụ, cuối cùng còn bị nói làrất có duyên với nhau, thật đến khổ!
Hỷ Lạcnói: Hôm nay thế này, sau khi ăn cơm xong, đợi một tuần hương, khi nào sắc trờisâm sẩm thì chúng ta tập hợp.
Lần nàycuối cùng ba chúng tôi cũng tập hợp lại được. Nhưng khi nhìn thấy dụng cụ củaThích Không, chúng tôi đều ngớ người kinh ngạc.
Hỷ Lạcnói: Sư huynh! Những thứ huynh nói đến là những thứ này à?
ThíchKhông đáp: Đúng vậy, tuy thể tích của nó lớn, nhưng dùng rất hiệu quả, xem cáinày, chồng hai cái lên nhau là có thể trèo tường, nếu đút chân vào trong cáinày, khi rơi xuống đất sẽ không bị thương, cũng không gây ra động tĩnh gì cả.
Tôi nói:Nói là nói vậy, nhưng một đệ tử cấp cao của Thiếu Lâm lại địu theo hai cái ghếdài và hai túi gai nhét đầy bông thì khó coi quá. Huynh mộtđống thế này chạy tớilẽ nào không có ai phát hiện?
ThíchKhông hỏi: Thế nào là “một đống thế này chạy tới”?
Tôiđáp: Huynh cõng theo hai ghế đẩu dài nhất chùa và hai túi gai nhét đầy bông,trông “một đống thế này”, chạy ngang qua sân mà không ai phát hiện ra à?
ThíchKhông đáp: Phát hiện ra chứ, mọi người đều phát hiện ra, nhưng huynh bảo là đemđi chế ám khí!
Tôinói: Ám khí to quá cơ!
Hỷ Lạcnói: Muội quan sát rồi, không có ai đi theo đâu. Bắt đầu thôi!
Sưhuynh Thích Không đã thành công khi quăng sợi dây thừng mắc vào một thân câycách bờ tường những một vạn tám nghìn dặm, sau khi kéo thử, cảm thấy chắc chắn,sư huynh liền dẫn đầu đoàn leo lên tường. Tôi nhận xét: Trông huynh giống nữhiệp ghê, động tác cứ thoăn thoắt ấy. Sau đó tôi leo lên tường. Đến khi cả bađều leo được lên tường, bóng chiều đã lặn xuống quá nửa.
ThíchKhông nói: Tổng cộng có hai túi bông, hai đứa dùng đi!
Tôinói: Còn huynh thì sao? Huynh trực tiếp nhảy xuống à?
ThíchKhông nói: Vớ vẩn, sư phụ nói rồi, trên đời này làm gì có thuật khinh công.Huynh nói cho hai đứa biết, huynh đã nghĩ ra một cách tiếp đất mới: Hai tay bámchắc lấy dây thừng rồi đánh đu, sau khi chao qua chao lại mấy lần là có thểđứng vững trên mặt đất. Lũ khỉ toàn làm như vậy cả. Xem huynh đây!
Nóiđoạn, Thích Không bám lấy dây thừng đu người đi. Chỉ nghe thấy một tiếng thétlớn, sư huynh đã ngã bịch xuống đất.
Phảnứng đầu tiên của tôi và Hỷ Lạc là lập tức quay đầu nhìn vào trong chùa, bỏ mặcsự sống chết của sư huynh Thích Không. Sau khi thấy bên trong không có động tĩnhgì, chúng tôi mới khẽ gọi: “Huynh chết chưa?”
Thíchkhông đáp: Đau lắm! Cao quá!
Tôinói: Năm mét.
ThíchKhông nói: Cao quá! Huynh phải ngất một lát đã.
Hỷ Lạchỏi tôi: Huynh ấy bảo có thể đu qua mà, sao chưa gì đã ngã thẳng xuống đất rồi?
Tôi trảlời: Muội xem, dây thì cách cây những mười mét, tường thì cách mặt đất có nămmét, có mà đu bằng mắt!
Hỷ Lạcnói: Vậy sao huynh không nói với sư huynh, ngộ nhỡ huynh ấy chết thì sao?
Tôiđáp: Thì huynh còn chưa kịp tính toán kỹ, huynh ấy đã nhảy khỏi tường rồi!
Tôi nóivới Hỷ Lạc: Để huynh lồng cái túi bông này vào nhảy xuống trước, nếu huynhkhông chết muội hẵng nhảy. Nói đoạn, tôi nhảy xuống, tuy vẫn sống, nhưng cú ngãkhông nhẹ, tiếp đó đến lượt Hỷ Lạc phải nhảy, tôi trải bông cẩn thận, rồi nói,có thể nhảy được rồi. Thích Không chẳng biết sống lại từ lúc nào, liền đứng dậyđịnh đỡ Hỷ Lạc. Tôi nói, cứ để đệ đỡ là được, huynh dưỡng thương đi. ThíchKhông nói, đệ xem, huynh có sao đâu. Chưa nói hết câu Hỷ Lạc đã nhảy xuống, haichúng tôi đều không kịp thừa cơ chạm vào da thịt muội ta.
ThíchKhông chạy lại hỏi: Không sao chứ?
Hỷ Lạcchỉ vào chân mình nói: Chệch khớp rồi!
ThíchKhông nói: Hả? Chắc huynh cho ít bông quá. Huynh cõng muội nhé!
Tôinói: Thôi đi sư huynh! Huynh có muốn cõng thì cõng cái ghế đẩu ấy, thứ gì huynhmang theo thì huynh tự cõng lấy, đệ và Hỷ Lạc chỉ phụ giúp huynh thôi.
ThíchKhông đáp: Việc này phải hỏi Hỷ Lạc.
Hỷ Lạcngẫm nghĩ hồi lâu, nói: Ai mang gì theo thì tự cõng lấy, ai không mang gì theothì cõng muội.
Dọcđường xuống núi, chúng tôi đi rất lâu, bấy giờ ánh chiều lụi hẳn, mặt trăng mớinhô, ven đường là khu rừng trúc trải dài, bên tai nghe tiếng gió thổi, biểntrúc bỗng trở nên thâm u khác với ban ngày, Thích Không cõng ghế, tôi cõng HỷLạc, đêm lạnh nhưng vẫn râm ran hơi ấm.
Tôinói: Khoan đã! Có vấn đề rồi!
ThíchKhông nói: Đúng! Huynh cũng phát hiện ra! Chúng ta cứ loanh quanh ở một chỗ.
Hỷ Lạcbất chợt ôm chặt lấy tôi. Tôi cũng nổi hết da gà. Cả bọn đảo mắt nhìn xungquanh hồi lâu, tôi định thần lại nói: Sư huynh làm đệ hết hồn, các bậc thềmgiống y như nhau, quanh đây lại toàn tre trúc, đương nhiên là như đi loanhquanh một chỗ rồi. Đệ chỉ có cảm giác hình như trong rừng trúc phía trước cóngười đang đợi ta.
Tôi vừadứt câu, Thích Không giật nảy mình, nói: Điều đệ nói còn khủng khiếp hơn nhữnggì huynh nói.
Tôiđáp: Có người đợi mình cũng chẳng sao, có người cũng tốt, còn hơn cứ loanhquanh luẩn quẩn một chỗ. Hỷ Lạc! Huynh đến chết ngạt vì muội đấy!
Tôi vừadứt lời, trong rừng trúc trước mặt bỗng có một người xuất hiện. Người này áodài lướt thướt, tay cầm cây sáo. Kẻ không dưng tìm tới chắc cũng chẳng có ýđịnh gì tốt đẹp, nhưng may sao hắn vận quần áo sẫm màu, chứ nếu mặc một câytrắng, thì chắc ba chúng tôi đã chết khiếp tại trận rồi, đối phương chẳng hóara chưa đánh đã thắng.
ThíchKhông nói: Ngươi là ai? Cầm thứ gì vậy?
Tên kiahuơ huơ tay, đáp: Sáo đấy!
Tôithấy một mũi tiêu độc bay vọt ra từ trong lòng cây sáo, hơn nữa dựa vào màu sắcmũi tên, tôi đoán chắc là có chất kịch độc, không phải tôi biết chất độc đó làloại độc gì, mà là tôi chưa từng thấy thứ màu xanh lục nào như vậy, nỗi sợ hãido thiếu hiểu biết cũng là một chất độc, tóm lại nó không thể nào là chất bổdưỡng được. Sư phụ dạy rằng chất độc có ba loại, loại nhiều màu thì có thuốcgiải, loại không màu thì không có thuốc giải, nhưng chất kịch độc nhất chắcchắn có màu sắc gần với màu lá cây nhất, tương truyền là một loại kịch độc códạng bột phấn màu lục đã thất truyền ở Tây Vực nhiều năm – sư phụ tôi bảo chưachắc đã ở Tây Vực, song thông thường hễ bắt gặp thứ gì không rõ chân tướng, lạikhông thể giải thích được thì đều nói là thứ ở Tây Vực – chỉ cần bỏ một gamxuống giếng, bảo đảm sẽ đầu độc chết một nửa dân thành Trường An. Chỉ cần bộtphấn tiếp xúc với da người, không những người đó chết ngay tức khắc, mà toàn bộda dẻ, xương cốt, nội tạng, đại não đều bị ăn thủng lỗ chỗ, tà mị hơn nữa là,nghe nói cảnh tượng chết trông đến nỗi buồn nôn, những ai chỉ nhìn thấy mộtlần, từ đó về sau sẽ chán ăn, tám mươi phần trăm là phải chết đói. Lẽ nào đâychính là chất độc diệt thành được nhắc đến trong lời đồn đại? Dù gì cũng có thểđưa sư phụ xem. Nghĩ đoạn, thấy mũi tiêu phi lén đã bay lại sát mình, tôi hơinghiêng người, để không dính phải nấm độc, sau khi mũi tiêu bay qua, tôi mớiđưa tay tóm lấy đuôi mũi tiêu, xem xét kỹ lưỡng.
Thích Khôngsững sờ, hỏi: Sư đệ! Đệ mang theo ám khí à?
Tôiđáp: Đệ có mang đâu, đệ vừa tóm được.
Hỷ Lạcnói: Rõ ràng tại huynh lắm mồm, làm sao người ta tự dưng lại phi ám khí về phíachúng ta?
Tên kiacười nhạt, nói: Có người bảo ngươi có khả năng tiên tri, quả nhiên ngươi có thểtiên tri thật. Ta chỉ không ngờ ngươi lại nhỏ vậy. Nhưng có người đã đưa tangân lượng để lấy mạng ngươi, ta không thể không lấy mạng ngươi được!
Tôiđáp: Ta nào có tiên tri. Ta mà tiên tri được thì đã chẳng xuống núi rồi.
ThíchKhông nói: Hắn muốn lấy mạng của đệ, đệ mau phi ám khí lại đi!
Tôiđáp: Nhưng ngộ nhỡ hắn chết thì sao?
ThíchKhông đáp: Đưa đây cho huynh, để huynh phi. Nói đoạn liền giật lấy ám khí, némvề phía người kia.
Tôi ngờrằng thâm tâm tôi cũng muốn ném mũi tiêu lại. Vì xưa nay chưa từng có ai có thểcướp đồ trong tay tôi.
Mũitiêu rời khỏi tay, gió lạnh liền ập tới. Rừng trúc rào rạt một hồi. Người kiavẫn đứng nguyên tại chỗ. Hỷ Lạc nói: Thích Không sư huynh! Tốc độ của huynhnhanh thật đấy! Đã trúng chưa?
Tôiđáp: Chệch rồi! Chệch ra xa là đằng khác.
Đangnói thì kẻ kia tuốt kiếm lao tới. Thích Không giơ ghế lên đỡ, chiếu ghế bị chẻlàm đôi. Xét từ mức độ nhẵn phẳng của vết chém, tôi đoán kiếm này là loại kiếmthượng đẳng. Chỉ có điều nó đã dính quá nhiều máu, oán khí quá nặng, khí thếcủa nó đã vượt khỏi tầm kiểm soát của người cầm kiếm.
Tôinói: Kiếm này không phải của ngươi.
Hắn trảlời: Đúng! Nhưng nhát kiếm này là dành cho ngươi.
Nóiđoạn, đường kiếm lại vung lên, bổ thẳng về phía tôi. Trong giây phút sinh tử,tôi lại quên mất lẽ ra phải buông Hỷ Lạc xuống từ trước, giờ thì hai tay đỡ HỷLạc, chỉ còn mỗi cái mồm có thể tác chiến mà thôi. Người kia bổ kiếm xuống, tôithung dung né người đi, nhân lúc kiếm chưa thu về, tôi ngoác mồm ngoạm vào cổtay hắn, thanh kiếm tức khác rơi đánh keng xuống đất.
Hỷ Lạc,Thích Không và tên sát thủ cùng lúc kêu to: Được phép đánh như vậy à!
Tên kiavừa thấy rơi vũ khí, liền quay người bỏ chạy. Thích Không nhặt kiếm lên; tôi gỡmũi tiêu trên một thân trúc cách chỗ tên kia vừa đứng ba mét, rồi cất đi. Chúngtôi tăng tốc chạy xuống núi. Tôi nghĩ, sao lại có người biết chúng ta muốn trốnchùa đi chơi nhỉ, lẽ nào có người có khả năng tiên tri thật? Nhưng tên kia làai, mà sao trông đụt thế? Có điều một tên đụt như thế vì sao lại có một thanhkiếm tốt nhường ấy? Tuy bảo ở trường đua ngựa không phải ai có kỹ thuật tốtcũng đều chắc chắn có ngựa tốt, bởi nhiều khi bọn nhà giàu cưỡi ngựa thượnghạng, nhưng kiếm thì lại khác, chỉ có cao thủ mới có thể sử dụng kiếm một cáchmau lẹ. Hạng người đụt thế kia dẫu sắm thanh kiếm tốt, chỉ tổ càng dùng càngcùn thôi. Điều đó chứng tỏ trước khi rơi vào tay tên kia, thanh kiếm này chắcchắn còn nhanh hơn.
ThíchKhông cõng kiếm trên lưng, nói với tôi: Thanh kiếm này ngắn hơn thanh kiếmthường một chút.
Tôinói: Kiếm ngắn thì tuốt khỏi bao nhanh hơn.
Hỷ Lạcnói: Thanh kiếm này giờ thuộc về huynh rồi!
Dọcđường, chúng tôi cứ băn khoăn không biết tên kia rốt cuộc là ai, kẻ nào pháihắn đến, bất giác đã đến chân núi. Huyện thành cách chân núi mấy dặm, có tên làTrục thành, vốn được gọi là Trúc thành, trận chiến đánh úp thành Trường an mangtính quyết định của bản triều hồi khai quốc chính là trận đại thắng Trúc thành,nhưng sau đó vị hoàng đế lập ra bản triều thấy cái tên Trúc thành không hay,nghe yếu ớt, dễ công phá, nên hai trăm năm trước đã đổi tên thành Trục thành,ngụ ý là tòa thành trục lộc Trung nguyên. Trục thành cách Trường An chỉ hơntrăm dặm, nhưng chúng tôi không quan tâm đến điều đó, điều chúng tôi quan tâmlà chúng tôi còn cách Trục thành bao xa.
Nhà dântrên đường đông dần. Vào trong thành mới biết, quầy quán đã đóng cửa từ lâu.Chúng tôi chỉ có mấy đồng bạc lẻ, không thể ở trọ được, đành phải ngồi co robên lề đường. Tôi bảo, đành ngủ ngoài đường một đêm vậy.
Một lúcsau, lính tuần đến trước mặt chúng tôi nói: Đứng hết dậy! Không được ngủ ở đây!
Línhtuần nói: Con đường này là đường giao thông kiểu mẫu trong thành, ngươi muốnngủ thì đi sang con đường kế bên mà ngủ, chẳng ai để ý đến ngươi đâu.
Bachúng tôi đi vòng sang con phố khác. Hỷ Lạc nói: Phải khi gà gáy quán xá mới mởcửa cơ, chúng ta dễ phải đợi cả đêm. Mua được đồ xong thì phải lập tức về ngay,không là bị phát hiện đấy.
Tôi vàThích Không nói: Hỷ Lạc này! Muội xuống được rồi đấy, Thích Nhiên ngồi xổmxuống rồi mà muội vẫn bắt đệ ấy cõng à. Thích Nhiên mệt lắm đấy!
Hỷ Lạc“ồ” lên một tiếng, cấm cảu tụt xuống, ngồi xổm bên cạnh tôi. Hỷ Lạc nói: Cuộcđào tẩu lần này thú vị thật đấy, sau này trong chúng ta có ai trở thành quan sửhoặc thi sĩ thì nhất định phải viết về câu chuyện này nhé, đặt tên sách là “Bata”.
Trêntrời muôn sao giăng kín, chung quanh mọi thứ đều xa lạ, cảnh tượng này bấy giờkhông ai lưu ý, nhưng lần tới chắc phải đến kiếp sau mới có lại được.
Sángsớm ngày sau, Hỷ Lạc đã đập cửa một quầy tạp hóa, mua mấy sợi dây khứ hồi rồilên đường rời thành chạy về chùa. Tôi thấy tất cả những tên đầu gấu lưu manhcho đến hiệp khách giang hồ đều nhìn vào thanh kiếm trên lưng sư huynh ThíchKhông, song tất cả mọi người lại lập tức lắc đầu bảo rằng đồ giả. Tôi cảm thấythanh kiếm này khác thường.
Lúc đithì xa, lúc về lại gần, chúng tôi rón rén bước đến trước chùa, ngặt nỗi cổngchùa lại mở, Hỷ Lạc nói: Chết rồi, bị phát hiện rồi, chắc chắn phương trượng sợchúng ta lại tiếp tục trèo tường nhảy xuống đây mà.
Chúngtôi nấp ngoài cổng chùa, không dám bước vào, Hỷ Lạc lén hỏi một vị tiểu sưhuynh đứng gác cổng, huynh ấy nói việc lần này là việc tày đình, bên trong đãbố trí người đâu đấy rồi, sư phụ và phương trượng đều đang đợi các người vàođấy.
Hỷ Lạchỏi: Việc tày đình gì vậy ạ?
Tiểu sưhuynh đáp: Nghe nói ba ngươi ăn trộm hai chiếc ghế đẩu và hai túi bông trongchùa, sợ tội nên lẩn trốn.
Bấygiờ, tiếng sư phụ tôi vọng ra: Vào cả đây đi! Đừng có lén lén lút lút nữa!
Cả bachúng tôi chậm chạp cúi đầu bước vào, chậm là vì cả ba đều đang vắt óc tìm cớ.Sư phụ vừa định nổi giận mắng: Chúng bay...
Độtnhiên, cả phương trượng và sư phụ đều há hốc mồm kinh ngạc, râu ria gần nhưchoãi xuống, vội kêu chúng tôi vào trong phòng, nhẹ nhàng gạn hỏi đầu đuôi câuchuyện, sau đó nói: Các con có biết đó là thanh kiếm gì không, đó là thanh kiếmmà người trong giang hồ đều đang đổ xô đi tìm đấy, tên của thanh kiếm này đượcgọi bằng một từ: Linh. Linh vốn là vật sở hữu của Vô Linh – tay sát thủ đệ nhấtgiang hồ - song lẽ, vì dính quá nhiều máu, vả lại những việc tên đó làm toàn làmờ ám, cho nên Linh đã nhuốm phải tà khí cực nặng của thiên hạ, nhưng con xembao kiếm này, nó được làm từ một cây gỗ thần mà trăm năm trước đã được rấtnhiều người thờ cúng, đúng là chính tà hòa quyện cho nên chỉ cần kiếm được đểtrong bao từ hai giờ trở lên, sau khi rút ra, kiếm khí có thể sát thương ngườikhác, đủ tưởng tượng được kiếm này sắc biến thế nào.
Sư phụnói vừa mê mẩn rút kiếm ra, trong phút chốc, mọi người xung quanh đều mất dạng.Sư phụ lại nói: Có điều, suy cho cùng đây chỉ là lời đồn đại thôi. Thực ra, nólà một thanh kiếm được mài tương đối nhẵn bóng, là biểu tượng địa vị giới võlâm, cho nên sau khi Vô Linh biệt tích mấy năm, mọi người đều tranh đoạt thanhkiếm này, vì vậy mà không ít người đã mất cả mạng. Nếu con không phải là đệnhất cao thủ, cắp thanh kiếm này ra ngoài chắc chắn sẽ không thể sống sót trởvề. Ai dè mấy đứa choai choai các con lại dám cõng kiếm từ chợ về chứ.
Phươngtrượng nói: Có thể tuyên bố với thiên hạ rằng, thanh kiếm này tạm thời do ThiếuLâm bảo quản, thiên hạ chắc sẽ thái bình hơn nhiều. Đúng là chẳng có thời hạn,chỉ có người loạn. Thời buổi thái bình làm gì có chuyện cứ nhao nhao đòi chémgiết nhặng lên chỉ vì một thanh kiếm, phen này có thể coi là yên ổn rồi.
Sau đótôi chủ động đưa chiếc tiêu độc nhặt được trên đường cho sư phụ, nói: Sư phụ!Người xem cây tiêu này, hình như phía trên có chất độc diệt thành.
Sư phụvà phương trượng giật nảy mình, đánh rơi kiếm xuống đất, sư phụ vội dặn mọingười tránh ra, sau đó gọi gấp vị sư huynh Thích Độc, có biệt hiệu Vô Độc BấtThức ở bộ Ám khí đến giám định. Mọi người dường như đã quên khuấy đi thanh kiếmtuyệt đỉnh kia, suy cho cùng, một thành kiếm cũng chỉ có thể giết được một dúmngười, còn thứ thiên hạ kịch độc thì có thể diệt được tất cả một triều đại. Kếtquả thẩm định khiến mọi người rất thất vọng, thứ vật chất màu xanh lục trên bềmặt ám khí sở dĩ có màu trúc thanh như vậy, một là do ám khí được sử dụng nhiềulần, hai là chắn chắn đã găm vào thân trúc.
Sư phụhỏi tôi: Võ công của người kia có lợi hại không? Là phái nào?
Tôiđáp: Con không biết, con chưa ra tay, con mới cắm hắn một phát hắn đã chạy rồi.
Sư phụthốt lên: Hả?
Rồihỏi: Sao kẻ đó lại biết các con lén lút xuống núi? Đến sư phụ còn chẳng biếtnữa là.
Tôiđáp: Con cũng không rõ, có thể hắn đã mai phục ở đó mấy năm rồi.
Sư phụlại nói: Vậy sao người đó lại có thanh kiếm này nhỉ?
Tôiđáp: Con cũng hỏi hắn rồi, hắn bảo đây quả thực không phải kiếm của hắn.
Sư phụnói: Chẳng nhẽ là do nhặt về? Lẽ nào giang hồ đổi vị, năm nay Linh kiếm đãkhông còn thịnh hành nữa ư? Quơ tay là nhặt được, thích cõng là cõng về luôn ư?
Bấygiờ, có người cấp báo, ngoài chùa có một toán người nghe nói có kẻ cõng Linhkiếm về, liền yêu cầu Thiếu Lâm đưa ra một câu trả lời chính thức, sau đó trưngra cho họ xem một lát, để thiên hạ biết rằng thanh kiếm đó có phải là Linh thậtkhông.
Sư phụlại thốt lên: Tin tức lan nhanh thế! Bảo với họ rằng, đây đúng là Linh thật,Linh về Thiếu Lâm, cũng coi như là ý trời, để giang hồ từ rày đã phân tranh,mọi người chớ có cướp đoạt thanh kiếm này nữa.
Ám khílàm bằng dây đàn hồi mà sư huynh Thích Không đã vất vả mày mò cuối cùng đã thấtbại, bởi ám khí đó chỉ có tôi mới sử dụng được, Thích Không dùng lần nào là lầnđó y rằng bị trúng tiêu.