10
Quan phủ nhận được tin, đêm đó liền phái bổ khoái đến nhà.
Một người đàn ông cao lớn, chống đao, sau khi hỏi rõ sự việc, cau mày nói:
“Sao lão gia các người lại nghĩ đến việc đi con đường đó? Chúng ta đã dán đầy cáo thị khắp phố, nói rằng trên núi có sơn tặc cực kỳ hung ác, vậy mà ông ta vẫn cố tình đi vào con đường chết.”
Chu quản gia nhăn nhó:
“Trước khi đi đã tính toán, là ngày đại cát.”
Ông vừa khóc, vừa đ.ấ.m n.g.ự.c than trời:
“Lão gia nhà ta c.h.ế.t oan quá! Đại nhân, xin ngài mau bắt sơn tặc, để chúng đền mạng!”
Bổ khoái đảo mắt như muốn lật ngược ra sau đầu, nói:
“Vốn năm nay tiền thưởng, chúng ta chỉ còn trông vào việc bắt đám sơn tặc này. Chúng đã đến bước đường cùng rồi. Giờ thì hay rồi, cướp được tài vật của các người, bọn chúng đã thông qua mối quan hệ, sớm lên thuyền ra biển cả rồi. Bắt à? Bắt ra tận biển mà bắt!”
Sơn tặc đã ngoài tầm tay, quan phủ chỉ xử lý qua loa rồi kết án.
Yên Hồng khóc đến mức ngất đi.
Phu nhân tắm rửa, chỉnh trang, thay một bộ y phục mới, ngồi xuống chính đường, triệu tập tất cả mọi người trong phủ.
Bà ra hiệu cho ta.
Ta bưng ra một khay bạc vụn.
Phu nhân nói:
“Những ai được gọi tên, bất kể khế ước sống hay khế ước chết, mỗi người hai lượng bạc làm lộ phí. Cầm lấy rồi đi, chúng ta giữ thể diện cho nhau.”
Châu Lan là người đầu tiên quỳ xuống đất, òa khóc.
Phu nhân nói:
“Nếu ngươi không muốn, ta sẽ gọi mụ môi đến dẫn ngươi đi, cũng được.”
Châu Lan lập tức nín khóc.
Nàng liếc mắt dò xét mấy lần, rồi nhanh tay chụp lấy một miếng bạc, quay người bước đi.
Thấy vậy, những người khác lần lượt tiến lên, chọn miếng bạc mà họ cho là lớn nhất.
Thực ra, ta đã dùng cân cân kỹ, tất cả đều đúng hai lượng, không hề có khác biệt.
Chỉ có Yên Hồng đứng ngây ra tại chỗ, tóc tai rối bời.
Chu quản gia gọi:
“Yên Hồng, còn không nhận bạc, tạ ơn đi.”
Nàng hoàn hồn, từ từ bước tới khay bạc, nhặt lên một miếng, rồi bất ngờ nói:
“Ta sẽ tìm một con đường xuống núi, cho dù phải đi ăn xin, ta cũng nhất định tìm lại t.h.i t.h.ể của lão gia.”
Phu nhân mỉm cười:
“Ồ, ngươi đang trách ta nhẫn tâm sao?”
Yên Hồng lắc đầu:
“Ta nào dám trách phu nhân.”
Đột nhiên, từ tiền viện vọng đến tiếng ồn ào.
Một gia nhân chạy đến báo tin:
“Phu nhân, Vương công công sai kiệu đến, nói muốn rước cô nương Yên Hồng đi. Họ bảo lão gia đã nhận ba trăm lượng bạc, người c.h.ế.t cũng không thể không giữ lời.”
Sắc mặt Yên Hồng lập tức tái nhợt.
Nàng cúi đầu nhìn chiếc nhẫn ngọc bích trên ngón tay, rồi giận dữ gỡ mạnh xuống.
Tên tiểu tư tinh ý hỏi:
“Phu nhân, có cần tiểu nhân tiễn Yên Hồng cô nương một đoạn không?”
Phu nhân phẩy tay:
“Ngươi cũng nghe thấy rồi. Cửa sau có thể ra. Ta sẽ không cản ngươi.”
Yên Hồng mấp máy môi, như muốn nói gì đó, nhưng cuối cùng không thốt ra lời.
Nàng cúi đầu hành lễ qua loa, khẽ nói:
“Ta về phòng lấy đồ rồi sẽ đi.”
Phu nhân gật đầu.
Yên Hồng bước vào phòng, mãi không thấy ra.
Người của Vương công công bất chấp ngăn cản, xông vào trong, rồi hét lên kinh hãi khi thấy một vũng m.á.u lớn trên sàn.
Chúng ta mới biết, nàng đã tự vẫn.
Nghe nói, Vương công công trút hết cơn giận lên Vương mụ môi. Bà ta là người mai mối, lại vô ích chuốc lấy một mớ rắc rối.
Vương công công tìm một cái cớ, sai người tống Vương mụ môi vào ngục, khiến bà ta chịu không ít khổ sở.
Không lâu sau, Vương công công vì đi sai một nước cờ, đắc tội với quý nhân, bị ban cho chén rượu độc mà chết.
Vương mụ môi được thả ra khỏi ngục, nhưng tóc đã bạc trắng, lại còn bị què một chân.
Đông qua xuân tới, ao hồ xanh biếc, đào mận rạng rỡ, chim chóc ríu rít.
Bệnh của phu nhân đã hoàn toàn khỏi.
“Chu phủ” đổi tên thành “Tống phủ.”
Phật đường bị dỡ bỏ, tượng Phật đều được bán đi lấy tiền.
Phu nhân cho người xây một nhà học ngay trên nền đất ấy.
Ta cùng muội muội đều theo Tương Lan cô nương học chữ trong nhà học đó.
Các gia đình quanh vùng nếu có con gái, chỉ cần muốn gửi đến học, phu nhân đều vui lòng nhận.
Không những miễn học phí, giấy, bút, mực, nghiên cũng đều do phu nhân cung cấp.
Trước đây ở nhà, ta được gọi là “Đại Nha,” nay vào học đường, cũng có một cái tên chính thức, gọi là “Vân Diễm,” giống như muội muội, đều lấy từ chữ “Ngọc.”
Phu nhân nói:
“Nữ tử đọc sách hiểu đạo lý, sẽ tốt hơn một kẻ mù lòa mở mắt, cả đời bị người khác định đoạt số phận. Các con phải học được chí khí như Tương Lan cô nương.”
Tương Lan cô nương không chỉ có đôi mày thanh tú, ánh mắt sáng ngời, mà tính cách cũng phóng khoáng.
Nàng thường cùng phu nhân ngồi trong đình, uống những chén rượu Huệ Tuyền lớn.
Sau khi uống, phu nhân thổi sáo, còn Tương Lan cô nương thì vẩy mực vung bút.
Dưới ngòi bút của nàng, núi non sông nước đều tràn đầy sức sống.
Tâm tư nàng cũng rộng mở, thích kể chuyện cười, thường khiến chúng ta – đám tiểu cô nương – cười đến ôm bụng, dậm chân, ngã lăn ra thành một đám.
Tiết tẩu vẫn mở quầy bán bánh như trước, nhưng không còn làm khuya như xưa. Nếu nhớ muội muội, nàng sẽ thu dọn sạp sớm, đích thân đến đón nàng về nhà.
Chu quản gia ngày một già yếu, nhưng phu nhân nói rằng, chỉ cần ông còn làm được, mọi việc trong phủ vẫn sẽ giao vào tay ông.
Sau tiết Xuân Phân là đến Thanh Minh.
Phu nhân thuê mấy chiếc xe lớn, dẫn chúng ta cùng ra ngoài thành du xuân.
Tương Lan cô nương cầm theo một chiếc giỏ, bên trong là những chiếc bánh đường do Tiết tẩu cẩn thận làm ra.
Ta khoác vai muội muội, chỉ thấy tiết xuân trong lành, ánh nắng rực rỡ, rừng cây thưa thớt thoáng đãng.
Cái giá lạnh cắt da của mùa đông trước, giờ đây đã như cách biệt cả một đời.
( Hết )