Chương trước
Chương sau
Ngày hôm sau, Daisy gọi điện cho Jack nhưng anh không nhấc máy. Cô càng trì hoãn việc kể cho anh về Nathan thì chuyện sẽ càng trở nên khó khăn hơn. Cô biết điều đó, đã trì hoãn nó trong mười lăm năm trời. Nhưng điều cô không nhận ra trước khi trở về là cô càng trì hoãn việc đó lâu bao nhiêu, thì sẽ càng có nhiều ký ức về cuộc sống ở thị trấn này kéo cô quay lại quá khứ bấy nhiêu. Trước khi cô đến, kế hoạch là kể chuyện cho Jack, đưa anh bức thư của Steven và xử lý hậu quả: nếu không phải dễ dàng thì ít nhất cũng minh bạch. Giờ đây, cô cũng không còn cảm giác quá minh bạch về những gì mình phải làm nữa. Nhưng nó phải được thực hiện. Bảy ngày nữa cô sẽ đi.

Trước buổi trưa, cô cố gọi vào số Jack hai lần nữa nhưng anh không trả lời. Cô cho rằng hẳn là anh đang cố tình không nghe máy. Cô tới nhà thờ cùng mẹ, và sau đó, họ ăn tối sớm cùng Lily và Pippen. Phillip “Pippen” Darlington năm nay hai tuổi và có mái tóc vàng để kiểu mullet bởi vì mẹ cậu không nỡ cắt những lọn xoăn ở cổ cậu. Cậu có đôi mắt xanh dương to tròn như Lily và cực thích Thomas Đầu Tàu Hỏa. Cậu cũng thích đội mũ lông chồn giả và hét KHÔNG! lớn đến mức cả hạt bên cạnh cũng nghe được. Cậu ghét đồ ăn cứng, nhện và đôi giày Barney khóa dán của mình.

Daisy nhìn cậu ngồi trên cái ghế đẩu cao ở bàn ăn tối của mẹ cô và cố không nhăn mặt khi cậu đổ nước Kool-Aid vị nho từ cốc Tommy Tippy của cậu vào khoai tây nướng. Mẹ của Daisy và Lily ngồi đối diện cô ở bên kia bàn và dường như không bận tâm đến việc Pippen đang tạo ra một mớ lộn xộn nhầy nhụa.

“Hắn là một thằng đốn mạt!” Lily bảo chị mình, nhắc tới, tất nhiên là, người sắp trở thành chồng cũ của cô, Thằng Đốn Mạt Ronald Darlington. “Vài tháng trước khi bỏ đi cùng cô bạn gái vị thành niên, hắn đã chuyển hết tiền ra khỏi tài khoản chung của bọn em và cất nó vào đâu đó.”

Bà Louella gật đầu buồn bã với cô. “Chắc là ở Mexico.” Khi hai chị em cô lớn lên, nếu một trong hai người thốt ra từ “thằng” ở bàn ăn, họ sẽ bị đuổi ra khỏi phòng.

“Luật sư của em tính thế nào về việc đó?” Daisy hỏi.

“Ông ấy không thể làm được gì nhiều. Bọn em có thể chứng minh rằng tiền từng nằm trong tài khoản, nhưng không biết nó đi đâu. Quan tòa có thể ra lệnh cho hắn ta trả lại em một nửa, nhưng điều đó không có nghĩa là hắn sẽ làm theo.

Và nhiều năm rồi, Ronnie được trả tiền kín để tránh trả IRS[12], nên có vẻ như hắn chỉ kiếm được hai mươi nghìn đô một năm thay vì bảy mươi lăm nghìn.” Lily cắt một lát thịt đầy hận thù. Dù là chị em và lớn lên cùng nhau, hai người không gần gũi lắm. Từ nhỏ đến lớn, họ chủ yếu là đánh nhau hoặc lờ nhau đi. Khi Daisy chuyển đi, Lily mới học cấp hai, và sau đó họ chưa bao giờ thực sự duy trì liên lạc. Việc mất đi Steven đã làm cô nhận ra gia đình quan trọng với mình đến thế nào. Cô cần cải thiện mối quan hệ với em gái.

[12] Internal Revenue Service: Tổng cục thuế Mỹ.

“Hắn nói rằng nếu em kể cho IRS nghe việc đó,” Lily tiếp tục, “hắn sẽ tranh quyền nuôi Pippen. Em có thể làm gì đây?” Khi cả mẹ cô và Lily cùng nhìn cô, Daisy nhận ra rằng đó không phải là câu hỏi tu từ. Có quầng thâm dưới mắt Lily như thể lâu lắm rồi cô không được ngủ ngon. Mái tóc vàng cắt ngắn và bao quanh khuôn mặt xinh xắn của cô với những lọn xoăn mềm mại, nhưng vào lúc này, trông cô chẳng hề mềm mại tí nào. Không, trông cô đáng sợ kinh khủng. “Em hỏi chị sao? Sao chị biết được chứ?”

“Darren Monroe là luật sư,” mẹ cô nói.

“Cha của Steven đã nghỉ hưu và đang sống ở Arizona. Và bên cạnh đó, ông ấy là luật sư biện hộ cho các vụ án hình sự, Steven thiết kế phần mềm máy tính. Con chẳng biết gì về án dân sự hết.” Cô nhận ra nỗi sợ trong đôi mắt xanh của Lily. Đó là nỗi sợ đột nhiên chỉ có một mình với trách nhiệm nuôi nấng một đứa trẻ. Tuy nhiên, khác với Daisy, Lily không được đảm bảo an toàn về tài chính, cũng như chẳng có nghề nghiệp để dựa vào. Dù công việc của Daisy chưa từng mang lại một khoản thu nhập lớn nào, nhưng cô là một nhiếp ảnh gia giỏi và có nhiều mối quan hệ. Nếu cô phải chu cấp cho mình và Nathan chỉ với khoản thu nhập cá nhân thì cô vẫn có thể xoay xở tốt. Lily chỉ là một bà nội trợ, một điều đáng ngưỡng mộ nhưng không phải là kỹ năng hái ra tiền. Cô đang rất sợ hãi. “Chị sẽ cố gắng nghĩ ra cái gì đó,” Daisy nói, mặc dù cô cũng có rắc rối của riêng mình và sẽ chỉ ở đây một tuần nữa.

Lily mỉm cười, “Cảm ơn chị, Daisy.”

“Hôm trước mẹ vô tình gặp Darma Joe Henderson,” mẹ cô nói khí bà xúc thìa vào món đậu bắp, rõ ràng là vào lúc này các lo lắng của Lily đã đirợc giải quyết xong. “Chắc là các con còn nhớ Darma Joe. Hồi trước bà ta làm việc ở công ty phần cứng Trusty đối diện quán Wild Coyote. Buck, con trai bà ta đã bị tai nạn ô-tô cách đây mấy năm, và họ đã phải cắt bỏ phần chân dưới đầu gối cậu ta đi. Chà, cậu ta có một cô con gái hát trong dàn đồng ca nhà thờ. Hôm nay có thể các con đã chú ý đến con bé cũng nên.” Louella dừng lại để cắn một miếng trước khi nói tiếp, “Con bé trông khá giống Buck, tội nghiệp, nhưng nó có giọng khá hay và tính tình tử tế. Nó đang hẹn hò với thằng nhóc... ồ, tên cậu ta là gì nhỉ? Mẹ nghĩ nó bắt đầu với chữ G. George, Geoff hoặc gì đó tương tự vậy. Dẫu sao đi nữa...”

Daisy dời mắt từ mẹ sang em gái. Mắt Lily đang chuẩn bị đờ ra và đầu cô hơi ngả ra sau. Mọi thứ thật sự là không thay đổi nhiều lắm kể từ khi cô đi. Cô biết có bảo mẹ mình đi thẳng vào điểm chính sẽ chỉ vô dụng mà thôi, bởi cô đã biết là chẳng có điểm chính nào cả và cũng chẳng bao giờ có hết.

Daisy phá ra cười. Mắt Lily tập trung trở lại và cô nhìn Daisy. Cô cũng cười. Pippen ném mũ lông chồn xuống sàn và khúc khích cười như thể cậu hiểu được câu chuyện. Cậu mới hai tuổi, nhưng cậu đã ở gần bà mình nhiều đến mức có lẽ cậu hiểu thật.

Bà Louella ngước khỏi đĩa. “Các con đang cười gì vậy?”

“Cười là cháu gái của bác Darma Joe trông giống Buck,” Lily nói dối qua một nụ cười. “Tội nghiệp con bé.”

“Đúng là không may.” Bà Louella cau mày. Họ tiếp tục cười và bà lắc đầu. “Chà, các con rời khỏi ghế và đưa Pippen theo đi.”

Sau bữa tối, Daisy thu hết can đảm lần thứ tư trong ngày hôm đó và gọi Jack, anh không nhấc máy, nhưng lần này cô để lại một tin nhắn cho anh. “Daisy đây. Tôi sẽ không đi đâu hết cho tới khi anh nói chuyện với tôi.”

Tất nhiên là anh không gọi lại, nên hôm sau cô gọi đến chỗ làm của anh. Cô và Penny Kribs ôn lại kỷ niệm xưa, cô cảm ơn cô ta vì đã gửi hoa tới đám tang Steven. Rồi cô hỏi Jack. “Đừng nói cho anh ấy là tôi gọi,” cô nói. “Tôi muốn làm anh ấy ngạc nhiên.”

“Ngạc nhiên sẽ tốt cho anh ấy đấy,” Penny nói. “Anh ấy đang bực bội lắm.”

Tuyệt. Daisy chờ máy và sau khi nghe gần nửa bài “The Night the Lights Went Out in Georgia,” Jack nghe máy.

“Jack Parrish đây,” anh nói.

“Chào Jack.” Anh không đáp lại nhưng cũng không dập máy. “Ngạc nhiên chưa, tôi, Daisy đây.”

“Đừng quấy rầy tôi ở chỗ làm, Daisy Lee,” cuối cùng anh đáp lại, kéo dài các nguyên âm hết cỡ. Phải, rõ ràng là đang rất bực bội.

“Đừng bắt tôi phải thế. Tí nữa gặp tôi nhé.”

“Không được. Chiều này tôi sẽ bay đến Tallahassee.”

“Khi nào anh về?”

Anh không trả lời và cô buộc phải hăm dọa anh. “Nếu anh không nói cho tôi biết thì ngày nào tôi cũng sẽ gọi lại. Cả ngày.” Điều đó chưa đủ tạo ra một lời đáp lại ngay tức thì. “Và đêm nữa.”

“Như thế là quấy rối.”

“Đúng, nhưng làm đơn kiện sẽ lằng nhằng lắm đấy.” Cô không tin lấy một giây là anh sẽ thực sự kiện cô tội quấy rối. “Hãy gặp nhau vào hôm anh quay lại.”

“Không được. Bữa đó là sinh nhật Lacy Dawn.”

“Lacy Dawn? Vũ nữ thoát y hay gái điếm?”

“Cả hai đều không phải.”

“Nghe giống nghệ danh lắm.”

“Có lẽ một cô gái tên Daisy Brooks không nên ném đá cái tên đó.”

Anh nói đúng. “Gặp tôi sau bữa tiệc vậy.”

“Không được. Lũ gấu khiêu vũ sẽ làm tôi kiệt quệ.”

“Jack...”

“Tạm biệt.”

Tiếng tít tít vang lên bên tai Daisy khi cô nghĩ ngợi xem phải làm gì tiếp theo. Gấu khiêu vũ sao? Ngày nay Jack có sở thích gì vậy? “Mẹ ơi,” từ bếp cô gọi với vào phòng khách. Và giữa tiếng còi báo động vang đến từ tivi, cô hỏi, “Có chỗ nào trong thị trấn có gấu khiêu vũ không ạ?”

“Gấu khiêu vũ à?” Tiếng còi lắng xuống, rồi mẹ cô thò đầu vào trong bếp. “Chỗ duy nhất mẹ biết là Showtime.”

“Đó có phải là một câu lạc bộ thoát y không?”

“Không, đó là một quán pizza, nhưng nó còn tổ chức tiệc sinh nhật cho trẻ con nữa. Lily đã tổ chức tiệc cho Pippen ở đó vào năm ngoái. Thằng bé chưa đủ lớn để hiểu là những con gấu to lớn đáng sợ sẽ không làm hại nó. Nó đã hét đến mức làm sơn bong khỏi tường. Bác Juanita Sanchez cũng đã ở đó với cháu trai, Hermie. Con nhớ bác Juanita chứ? Bác ta sống ở cuối đường trong căn hộ màu hồng, tội nghiệp thay. Một ngày nọ...”

Daisy không hỏi vì sao sống trong một căn hộ màu hồng lại đáng “tội nghiệp thay,” nhưng cô cũng sẽ chẳng bận tâm làm gì. Cô hỏi thăm chi tiết rồi đưa ra một kế hoạch. Cô tìm số quán Showtime và quay số. Sau khi điện thoại bị một đám thiếu niên chẳng biết mô tê gì chuyền tay nhau, cuối cùng cô cũng được nối máy với người tổ chức tiệc. “Xin chào,” Daisy mở lời, “Tôi đã bị mất thiệp mời tới tiệc sinh nhật của một bé gái tên Lacy Dawn. Tôi không chắc về họ con bé, nhưng nếu chúng tôi lỡ mất buổi tiệc đó thì con gái tôi sẽ buồn lắm. Cô có thể cho tôi biết tiệc bắt đầu lúc mấy giờ không?”

Người tổ chức tiệc nghe có vẻ lớn tuổi hơn đám thiếu niên làm việc ở đó, và cô ta mất khoảng ba mươi giây để quay lại với câu trả lời. “Tôi không có cô bé nào tên Lacy Dawn cả, nhưng có một Lacy Parrish đây.”

“Đúng rồi đấy.”

“Mẹ cô bé đặt một bàn từ sáu tới bảy giờ ba mươi.”

“Vào thứ Bảy sao?”

“Không. Thứ Tư.”

“Ôi trời ơi. Tôi mừng vì mình đã gọi. Cảm ơn cô nhé.” Vậy là, Lacy Dawn là Lacy Parrish. Rõ ràng là cháu Jack, và anh sẽ trở về thị trấn vào thứ Tư.

Cô gọi Lily và không hề thấy mảy may tội lỗi về những gì sắp tới mình sẽ làm. Cô đã cảnh báo Jack rằng cô sẽ trở thành cơn ác mộng đáng sợ nhất của anh. Lúc đó chủ yếu là cô dọa suông thôi. Giờ thì không vậy nữa, và cô sẽ không đi đâu hết. Cô không định kể cho Jack về Nathan ở tiệc sinh nhật của cháu anh, nhưng Jack cần phải biết rằng anh sẽ không được yên bình cho tới khi anh chịu gặp cô.

Khi Lily nghe máy, cô hỏi xem liệu Lily và Pippen có cùng mình tới quán Showtime vào tối thứ Tư được không. Em gái cô muốn biết vì sao, và cô giải thích tình huống.

“Hay đấy,” Lily nói. “Pippen không chỉ làm vỏ bọc cho chị mà em còn là bạn học với Billy và Rhonda. Chị gái của Rhonda, Patty Valencia, cùng tuổi chị đấy.”

“Cô ấy có phải là một cô gái gốc Tây Ban Nha rất xinh với mái tóc đen dài không?”

“Phải rồi, cả hai bọn họ đều rất xinh. Dù em nghe nói Rhonda và Billy đã sinh con liên tục nên dạo này có lẽ cô ấy sẽ hơi điên điên.”

“Có thể lắm.” Daisy liếc nhìn quyển lịch in hình phong cảnh Texas của mẹ mình. “Em có chắc là em muốn làm việc này cùng chị không? Mẹ kể cho chị là lần trước Pippen đã hét đến mức làm sơn bong khỏi tường.”

“Thằng bé không còn làm thế nữa.” Cô quay miệng khỏi điện thoại và nói, “Pippen, giờ con lớn rồi. Con không phải nhóc con ngọt ngào của mẹ sao?”

“Không!”

Tuyệt. Daisy gác máy và dành cả buổi chiều còn lại để giúp mẹ nhổ cỏ trong vườn hoa. Cô mang cái máy Nikon ra và quỳ giữa bầy hồng hạc, chống khuỷu tay lên đầu gối để giữ thẳng máy ảnh. Cô đặt mình hướng về phía bóng của bà Louella để ánh nắng chiếu vào một bên mặt bà. Cô ước gì mình đã mang theo cái máy có cuộn phim đen trắng để màu hồng rực rỡ của bầy hồng hạc không át mất mẹ cô. Hoặc nếu mang theo cuộn phim kỹ thuật số Fuji, khi về đến nhà, cô có thể đưa ảnh vào máy tính và làm cho bức ảnh thật sống động.

Cô nằm ép bụng xuống và dùng hai khuỷu tay đỡ lấy sức nặng của máy ảnh. Cô chụp mẹ cô, Annie Oakley làm nền đằng sau.

“Daisy Lee,” mẹ cô nói với một cái cau mày, “đừng chụp ảnh dưới mũi mẹ.”

Cô thở dài và ngồi dậy. Lâu lắm rồi cô mới thấy có hứng mang máy ảnh ra và quay lại làm một việc mà mình từng rất thích. Cô đã phải thôi làm việc cho Ryan Kent, một nhiếp ảnh gia tài năng ở Seattle, để chăm sóc Steven.

Cô đã tập tành chụp ảnh từ năm cấp ba, và khi Nathan lên bốn, cô đăng ký học ở trường đại học Washington. Sau bốn năm, cô nhận bằng cử nhân và bắt đầu thực tập với các nhiếp ảnh gia hàng đầu trong vùng. Các bức ảnh của cô được treo trong vài studio và phòng tranh lớn ở khắp thị trấn. Và bức ảnh cô chụp một người đàn ông đứng trên nóc một chiếc xe tan tành sau trận động đất năm 2001 đã được đưa lên trang nhất tờ báo địa phương.

Daisy những tưởng là khi mọi thứ đã ổn định, mình sẽ quay lại làm việc cho Ryan, nhưng dạo gần đây cô nghĩ đến việc mở một studio riêng. Có lần, một trong những nhiếp ảnh gia thành công nhất mà cô từng làm việc cho đã bảo cô rằng, chìa khóa dẫn tới thành công là tìm ra một địa điểm bắt mắt và ở lại đó trong ít nhất năm năm. Tài năng thì cũng quan trọng đấy, nhưng địa điểm bắt mắt mới là yếu tố then chốt khi khởi nghiệp.

Càng nghĩ nhiều về chuyện này thì cô càng thấy đó chính xác là việc mình sẽ làm. Một khi đã bỏ lại quá khứ sau lưng, cô sẽ được tự do bắt đầu lại từ đầu. Có lẽ cô sẽ bán nhà. Sau khi Steven mất, số tiền bảo hiểm của chủ nhà đã trả hết khoản thế chấp. Có lẽ cô sẽ bán nó, và cô cùng Nathan có thể chuyển đến một căn hộ chung cư ở Belltown.

Cô nhún vai và đưa ống kính vào gần một bông hoa hồng màu vàng điểm sắc cam. “Con đang nghĩ sẽ bán nhà khi con quay lại đó,” cô nói với mẹ mình khi bấm máy.

“Đừng đi trước bản thân,” mẹ cô cảnh báo. “Colleen Forbus đã bán nhà sau khi chồng bà ta, Wyatt, lên đường tới thiên đàng, và kể từ đó bà ta cứ hối hận mãi.”

Có lẽ cô sẽ đợi thêm vài tháng nữa cho chắc. Tất nhiên là cô sẽ tìm hiểu xem Nathan cảm thấy thế nào về việc đó trước. Nhưng gần đây cô bắt đầu thấy dường như quá khứ của mình ràng buộc với ngôi nhà đó quá nhiều. Cô cũng chưa phải quyết định ngay hôm nay. Đó là một thứ để nghĩ đến. Một thứ nằm ở chót bảng danh sách những việc phải làm trong đầu cô.

Cô tì khuỷu tay lên đầu gối và chỉnh lại độ mở ống kính để đưa khóm hồng và bầy hồng hạc sau đầu bà Louella vào tiêu điểm, tạo cho bức ảnh một bố cục rực rỡ tươi đẹp và có chiều sâu. Cô bấm máy và nghĩ sẽ tuyệt làm sao nếu mọi thứ trong đời mình cũng được làm rõ bằng cách thay đổi tiêu cự ống kính.
Chương trước
Chương sau
Website đọc truyện online chất lượng hàng đầu việt nam, với nhiều truyện tiên hiệp, truyện kiếm hiệp, truyện ngôn tình, truyện teen, truyện đô thị được tác giả và dịch giả chọn lọc và đăng tải.
Liên hệ về bản quyền/quảng cáo: [email protected]

Chính sách bảo mậtQuy định nội dungBản quyềnĐiều khoảnQuyền riêng tư

Website hoạt động dưới Giấy phép truy cập mở Creative Commons Attribution 4.0 International License.