Canh Thìn, Thiệu Bảo năm thứ hai (tức năm 1280 dương lịch),tại đạo Đà Giang, vùng Tây Bắc Đại Việt; Sương sớm vùng núi rừng càng làm cho cái rét mướt đầu đông thêm se sắt, đã cuối giờ Mão mà đất trời vẫn chưa thoát hẳn cơn ngái ngủ. Trong cái màn tù mù đó, có một đoàn người ngựa phi nước kiệu về khu doanh trại bề thế của người Man nằm ở thung lũng dưới chân dãy núi xanh ngắt. Dẫn đầu đoàn người là một thanh niên nét mặt tuấn tú, mi thanh, mắt sáng, dáng người cân đối, khỏe mạnh. Đi theo người thanh niên là đội tám người gồm cả người hầu, phu khuân vác cưỡi chung trên năm con ngựa. Ngoài lũ người hầu và phu phen ra còn có hai rương gỗ nặng trĩu buộc hai bên lưng con chiến mã to khỏe nhất đoàn.
Đoàn người và ngựa đông đảo nhanh chóng bị chặn lại bởi những người lính dân tộc trong bộ áo xanh nai nịt gọn ghẽ, tay lăm lăm thanh mã tấu gác ở cổng doanh trại. Thanh niên đầu đoàn ghìm cương con ngựa ô lông bóng mượt rồi nhảy xuống, bước về phía gã râu ria xồm xoàm áng chừng là thủ lĩnh đám lính gác: :Phiền vị tráng sĩ đây vào báo cho chúa đạo Đà Giang có Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật(1) của triều đình đến gặp gỡ theo lời ước hẹn." Nghe thấy sáu từ “Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật”, gã thủ lĩnh giật mình ngạc nhiên. Y vội quay lại nói xì xồ với tên lính áo xanh đứng bên cạnh. Tên lính “vâng, dạ” liên mồm rồi lật đật chạy vào. Một lát sau, từ phía trong vọng ra tiếng trống “thùng thùng”, tiếp nối bằng hồi kèn đón khách đặc trưng của người Man.
Chính sách bảo mậtQuy định nội dungBản quyềnĐiều khoảnQuyền riêng tư
Website hoạt động dưới Giấy phép truy cập mở Creative Commons Attribution 4.0 International License.