Nằm trong khu nhà lính của điện Cây Quế, một phòng thí nghiệm bí mật sáng đèn làm việc khi những nơi khác đều đã tối om. Đối lập hoàn toàn với màn đêm đen đặc, cùng những trận gió rét buốt thổi từ triền núi, nơi ấy ấm áp, sáng rỡ, với tiếng lục cục vang lên không ngớt. Cách không quá xa dãy nhà lính đồn trú, chỗ ấy là bệnh xá cũ, đã được cố Tổng lãnh và bây giờ là Giao Long cho bác sĩ Kiyo “thuê” để ở mỗi khi tàu về bến, đồng thời thực hiện các nghiên cứu cùng cô Dung và Hồng Ma. Masami cũng đến phụ việc, và sự thực rằng cô ấy sống ngay ở lầu trên căn nhà ba tầng này, chuyện đó cũng không khó hiểu.
Phòng làm việc của bác sĩ Kiyo Hazama là nơi mà có nằm mơ, lính tráng nơi đây cũng chẳng thể tưởng tượng ra. Sâu trong căn nhà, qua cánh cửa bí mật được ngụy trang bằng chiếc tủ đựng bát đĩa trong bếp, là một hành lang dài và sâu hun hút dẫn xuống khu nghiên cứu thực sự. Vốn là một bunker chống bom cải tạo lại, chỗ này còn sâu xuống ba tầng nữa, tổng bốn tầng, với khu nghiên cứu, thí nghiệm nằm tại nửa dưới. Nửa trên, chiếm hết hai tầng lầu là chỗ cất mấy thứ linh tinh, được giả thành một cái “kho” bình thường. Trên tường gắn đầy các ống dẫn nước, cùng một máy bơm để bơm nước lên bồn chứa lớn phía trên nhà, trong khi xung quanh là hàng tá kệ, tủ đã phủ đầy mạng nhện, với vô số sách vở, tài liệu từ không biết bao nhiêu đời.
Phòng thí nghiệm của bác sĩ Kiyo chiếm hoàn toàn tầng ba, còn tầng hầm cuối là gì thì có trời mới biết. Mở cánh cửa sắt, bên trên gắn đầy bánh răng, cơ quan và hàng tá máy móc khác, người phụ nữ khoác trên mình chiếc áo blouse trắng, mặt đeo kính, tóc buộc cao sau gáy bước vào trong, theo sau là Dung với Masami. Đi cuối là Giao Long, học trò cũ khi còn ở học viện, và Oa Lân, vì lý do gì đó mà bị sếp lôi đầu theo. Họ đứng một hàng dài, do cầu thang xuống dưới khá hẹp nên phải đi từng người một. Masami phải biến về dạng người thường, còn Giao Long thu nhỏ lại bằng đúng kích thước khi còn sống. Oa Lân tự ‘teo” lại, thành thiếu nữ mười lăm, mười sáu, mà cô chết khi cũng mới từng tuổi ấy, nên cũng không quá dị hợm.
Đi khỏi cầu thang, đoàn năm người mới xuống được khu vực nghiên cứu tuyệt mật của bác sĩ. Vốn là bunker chống bom xuyên giáp đặc biệt, căn hầm nền tròn, bán kính năm mươi sáu thước này được bọc trong bốn thước bê tông cốt thép, kèm thêm đá tảng chèn trên, cùng loại với đá xây tường thành bao ngoài điện. Nơi này chứa hàng tá những bộ thí nghiệm hóa học, các kệ thép đựng đầy những hũ hóa chất, các mẫu vật được bảo quản trong cồn, cùng một bộ xương người, vài tiêu bản rắn cùng một bình rượu rắn to, vàng óng, thấy cả con hổ mang chúa vảy đen phồng mang nằm gọn phía trong. Tường treo đầy các phác đồ trị bệnh, từ châm cứu tới phẫu thuật, thậm chí là hai bức tượng người với một cái phủ da nửa trái, nửa phải là các bó cơ, cái kia lại lộ tất tần tật cơ quan nội tạng ra, từ não tới ruột già, nhìn gớm chết.
Nơi ngập ngụa mùi cồn y tế, Kiyo tiến đến bên chiếc bàn gỗ dài, phủ bụi. Kéo ghế, cô ngồi xuống, lôi trong hộc bàn ra một xấp giấy tờ đã đóng mạng nhện. Một tập hồ sơ cũ, chữ viết hoàn toàn là tiếng Việt, nhưng lại hơi khác so với cách Giao Long viết. Kỳ thực, chữ của “Thi Hoàng” là trò pha trộn nhiều ký tự của các ngôn ngữ khác nhau lại, nên nó khá tào lao, chứ không như các văn bản chính thức thế này.
Ngồi xuống mấy chiếc ghế kim loại gần đó, được Kiyo dùng phép mang ra từ tận góc, bốn người yên vị, chờ được nghe công bố một vấn đề cực kỳ quan trọng về Viêm. Bởi lẽ hồi chiều, sau khi biết chị dâu nói rằng con bé sẽ bạo phát năm mười lăm tuổi, Giao Long đã tức khắc tốc biến qua nhà Kiyo để hỏi cho rõ ràng. Cô không tin nó, như bà mình, có khả năng ấy. Tuy bà nội cô không sở hữu Huyền Viêm, bà vẫn có rất nhiều linh lực. Thế nhưng một đời không thể dùng phép, tới phút cuối đời cũng chưa một lần dẫn động linh lực được. Kiyo khi đó là người trực tiếp nghiên cứu, chữa trị nhưng vô phương. Và bởi vì Viêm tới từ cùng một thế giới với bà, nên thuyền trưởng muốn biết chắc nó có khả năng dùng ma pháp không.
Cầm xấp giấy lên, vỗ vỗ mấy cái, Kiyo nói:
– Nếu Viêm tới từ bên kia, chính xác là mang dòng máu thuần chủng bên ấy, thì con bé cả đời cũng không thể dùng ma pháp dược. Khỏi lo! Nhưng…
– Khoan! – Oa Lân giơ tay – Tại sao nó không dùng được? Rõ ràng con bé là một bồn linh lực sống mà, phải không chị Dung?
– Ừ, lúc làm căn cước chị có kiểm tra rồi. – Dung gật đầu – Giáo sư, thế này là…
– Do nó là người bên ấy, phải không?
Chống tay xuống ghế, Giao Long từ tốn hỏi. Và đúng như những gì cô nói, Kiyo gật đầu. Sau đó, cô bắt đầu giải thích.
Lịch sử tìm kiếm lời giải cho “ma pháp” của Thủy Tinh kéo dài đến hàng ngàn năm trước, khi những nền văn minh đầu tiên của thời đại này dần đạt tới đỉnh cao vinh quang. Có hai trường phái chính thống, được gọi là Đông học và Tây học, giải thích bản chất của ma pháp với linh lực theo hai hướng khác nhau.
Theo Đông học, Kiyo nói, họ quan niệm mỗi sinh thể là một tiểu vũ trụ, với linh lực là năng lượng linh hồn nội tại của mỗi sinh linh có ý thức, dẫn động từ khu vực gọi là “đan điền” dưới bụng lên tim, đến não và theo mạch máu đi khắp cơ thể. Khắp toàn thân, đối với thân thể nhân loại bên này, có ba ngàn sáu trăm huyệt đạo, là những “cổng” dẫn linh lực. Để làm việc mà giới tu hành ngày xưa gọi là “đả thông kinh mạch”, một người có linh lực cao, khống chế tốt sẽ điểm huyệt khai thông mạch đạo của người cần mở, tạo thành đường cho linh lực dịch chuyển. Mỗi chủng loài có số lượng huyệt đạo, sơ đồ bố trí và vai trò khác nhau, nên các thầy bấm huyệt, châm cứu phải có phác đồ riêng cho từng loài. Do chúng nằm trên hệ thống mạch máu nên phải tuyệt đối cẩn trọng, làm quá yếu sẽ không đủ, nếu quá mạnh thì sẽ phá vỡ mạch, gây nội thương, mà theo y học hiện giờ là xuất huyết.
Ở đây, “linh lực” được giải thích là nguồn năng lượng bẩm sinh tạo thành từ linh hồn, nên mới có tên gọi đó. Việc điều hướng linh lực sẽ giúp tạo thành ma pháp, là hành vi can thiệp vào các quy luật tự nhiên của thế giới. Đông học chú trọng vào các thuật tấn công dạng tia sáng hay những phép cường hóa trực tiếp cơ thể, kết hợp vận dụng khí công và khả năng võ thuật để tạo thành những “võ giả”, tức lũ tu tiên đã bị Hồng Ma đồ sát ngày trước. Ma pháp cũng có thể cường hóa vật dụng, công cụ, và, với một số như thuật giả kim, tạm thời tạo ra các công cụ cần thiết để sử dụng cho những mục đích khác nhau.
Dĩ nhiên thuật giả kim không bền, cũng như sức mạnh của một binh khí tạo thành từ giả kim chỉ là khoảng một phần mười so với cùng thứ ấy nhưng được rèn dàng hoàng, và chỉ là một phần năm mươi tới một phần trăm so với vũ khí được ép cường hóa. Và trên hết, do lý thuyết của Đông học là lấy linh lực tạo ma pháp, dùng sức mạnh nội tại nên tốc độ vắt kiệt sức rất nhanh. Mấy cái gọi là ‘tu luyện linh hồn” hay “tăng cường cảnh giới” đều là trò bịp bợm, kỳ thực là cải thiện khả năng khống chế linh lực và tăng sự thuần thục đối với ma pháp chứ chẳng hề làm gì được tới linh hồn thực sự.
Trong khi đó, theo Tây học thì linh lực là năng lượng ma pháp tồn tại sẵn trong từng cá thể, và theo hơi hướng thần thánh thì là do Đấng Sáng thế ban cho. Tây học ban đầu vốn là triết học duy vật sơ khai, sau khi có Giáo hội thì dần biến thành triết với thần nên mới có cách giải thích ấy. Tuy vậy, triết lý phương Tây không phải không có cái lý riêng.
Với nền tảng là triết học duy vật, coi vật chất tồn tại trước ý thức, Tây học tạo nên lý thuyết về “vòng ma pháp”, là vòng tuần hoàn năng lượng ma thuật trong cơ thể. Là cái nôi của nền triết và y học cổ đại phương Tây, các thành bang Cộng hòa Hellena cổ, chính xác hơn là những nhà thông thái của họ, đã vẽ nên phác đồ về sự tuần hoàn ma thuật. theo đó, tồn tại trong mỗi sinh vật có ma pháp là một hệ thống ma pháp trận sinh học, hoạt động như những khu vực dẫn linh lực vào từng bộ phận cơ thể.
Đó là một hệ tuần hoàn mở, với cơ thể vừa xuất linh lực ra dưới dạng ma pháp cụ thể, vừa nhận linh lực vào qua những loại thực phẩm chứa đựng, cũng như việc luyện tập tăng cường khả năng kiểm soát. Theo thuyết của họ thì linh lực không tự sinh ra hay mất di, mà đượng bảo toàn và chỉ chuyển từ trạng thái cụ thể này sang trạng thái cụ thể khác, hay từ cụ thể sang trừu tượng và ngược lại. Thuyết ấy cho rằng không gian được tràn ngập trong linh lực “loãng”, với mật độ không quá dày đặc.
Dựa trên nền tảng của ma pháp Hellena, Cộng hòa Remusa, về sau là Đế quốc Remusa khổng lồ, phát triển tiếp học thuyết này lên một tầm cao mới, được gọi là “thuyết anima”. Theo đó, anima, một từ tiếng Remusa, nghĩa là “linh hồn”, là một dạng năng lượng trừu tượng đặc biệt tồn tại trong cơ thể. Lý thuyết của họ đa số vay mượn, nhưng lại có những bước tiến đặc biệt, nhất là thành tựu về mạch ma pháp và vòng ma thuật hoàn chỉnh. Theo đó, từ các vòng, đóng vai trò như “máy bơm”, linh lực sẽ “chảy” vào hệ thống mạch và tới mọi nơi trong cơ thể.
Giải thích về sự vận hành của ma thuật, các học giả Remusa đã chỉ ra rằng, bằng việc dẫn động anima trong cơ thể với các câu chú ngữ đặc biệt, vật dẫn nhân tạo như gậy phép và ma pháp trận, họ có thể huy động một phép thuật cường đại trong khi giảm được sự tiêu hao linh lực. Như thế, họ lý giải được vì sao có thể bọc ma pháp toàn thân thành các phép cường hóa, đồng thời với thuyết mở rộng, cho rằng thông qua sự tiếp xúc trực tiếp trong một thời gian mà anima có thể “phủ” lên những vật vô tri, cho phép chúng tạm thời dùng làm ma đạo cụ, và cũng là nguyên lý niệm phép lên vật dụng chính của đại lục Gaia suốt hai ngàn năm sau. Điều này đúng với Đông học, cho rằng với một công cụ hay phương tiện hỗ trợ thích hợp thì có thể dễ dàng kiểm soát lượng linh lực tiêu hao và cường độ ma pháp hơn.
Tất nhiên, đó đều chỉ là lý thuyết suông, được tạo ra để làm thỏa mãn những kẻ nông cạn muốn tin vào.
Trước khi trở thành giảng viên Đại học và lấy học vị giáo sư, Kiyo đã từng theo Hồng Ma học việc, chủ yếu là giải phẫu và nghiên cứu sự tồn tại của thứ gọi là “mạch ma pháp”. Với mỗi loài, cấu trúc cơ thể khác nhau sẽ khiến cơ quan nội tạng, bộ khung xương, dây thần kinh, tới cả những thứ đơn giản, mắt thường trông cũng thấy như lớp da, đồng tử mắt,… khác nhau. Như vậy, sự đa dạng sinh học dẫn đến đa dạng về hệ thống mạch ma pháp. Những lý thuyết của người xưa chỉ áp dụng cho nhân loại với á nhân, còn yêu quái, đối với họ thì đó đơn giản là “bẩm sinh”, không cần bận tâm nghiên cứu chuyên sâu.
Vào thời kỳ Phục hung, khi các nhà khoa học, họa sĩ, tác gia, thợ nghề,… dần nổi dậy chống lại giáo lý Nhà thờ, người phương Tây bắt đầu có cái nhìn khác về những lý luận ma thuật họ được học suốt hơn ngàn năm qua. Từ thời nhà bác học đại tài Julio da Vinci tới giáo sư sinh vật học Alexander Darwin, người Tây đã luôn tìm cách lý giải theo lối khoa học thực sự, loại bỏ những lập luận thần thánh, giả khoa học ra khỏi thường thức. Phủ nhận lý thuyết về một Đắng cao hơn tạo nên thế giới, họ lao vào nghiên cứu, từ cơ thể sinh vật, các bó cơ, đốt xương cho tới mổ xẻ não bộ, phẫu thuật ếch, thử nghiệm vô số cách. Số khác lại hứng thú với homunculus, tức những người “nhân tạo”, và muốn tạo ra một thứ như vậy nhưng sở hữu được vòng ma pháp hoàn chỉnh, dùng nó làm vật thử nghiệm cho lập luận của mình.
– Kỷ nguyên Khai sáng.
Masami buộc miệng nói.
– Cái thời Gaia phát điên vì các công bố khoa học cứ ập tới liên tục. Ba thế kỷ phát triển khoa học kỹ thuật, đạt được vô số thành tựu cùng các phát kiến địa lý, bành trướng thế lực đã giúp họ nâng cao vị thế và trở thành lực lượng dẫn đầu thế giới suốt mấy trăm năm nay.
Giao Long lên tiếng.
– Nhưng đó không phải lý do cho việc này phải không?
– Đúng vậy.
Gật đầu, bác sĩ nói tiếp:
– Ở đây Dung với Masami chưa biết, Giao với Oa Lân thì biết rồi, là một trong bốn người vợ của ngài cố Tổng lãnh, của thầy Hải là người Trái đất. Cùng một quốc gia với Viêm.
– Hả?
Hai người kia hét to.
– Chuyện thiệt à?
– Bác sĩ không nói giỡn. – Kiyo lắc đầu – Thiệt hay không, cứ hỏi cô cháu quý hóa đang ngồi kia là biết.
– Lâu rồi, không cần nhắc lại.
Lắc đầu, Giao Long nói, ý không muốn đào sâu. Đều là sĩ quan cả, họ hiểu ý, chẳng hỏi thêm. Nhưng Kiyo nói điều đó không phải cho vui, cũng không phải kiểu sẽ lôi người đã khuất ra mà chọc ghẹo. Cô có lý do riêng, và đó chính xác là lời giải cho chuyện bà nội “Thi Hoàng” không dùng phép được.
Lấy ra bức tranh vẽ các hình ngoằn ngoèo, không khó để mấy người kia nhận ra đó là bộ nhiễm sắc thể ở người. Hai mươi hai cặp thường, giống hệt nhau ở cả hai giới, với bộ thứ hai mươi ba là nhiễm sắc thể giới tính. Thứ này, kiyo nói, chính là bộ nhiễm sắc thể của Nguyễn Thùy Chi, cô gái bí ẩn “xuyên không” sang bên đây và trở thành “bà hai” của cố Tổng lãnh. Lại lấy một bức khác, vẫn là nhiễm sắc thể, nhưng khác với tấm trước, cái này có đến hai mươi bốn cặp. Nằm ngay cạnh nhiễm sắc thể giới tính trên bảng là một bộ “đặc biệt”, được vẽ với màu khác cùng cấu trúc đặc biệt nom như hình chữ thập. Chỉ tay vào nó, nhiễm sắc thể thứ hai mươi bốn, Kiyo nói:
– Nhận ra sự khác biệt không? Cái tôi cầm trên tay phải thiếu nhiễm sắc thể này, trong khi bên trái lại có. Mà cũng chả phải xa lạ gì đâu, bảng tôi cầm bên trái này là bộ của Dung đấy.
– Hả? – Dung khẽ thốt lên.
– Không có ý lai gen cô với cái gì đâu. – Kiyo thè lưỡi – vào chuyện chính nè. Dung là một “con người”, theo đúng định nghĩa khoa học, là “homo sapiens” thuần, không bị lai với bất cứ chủng loài nào khác. Thuần huyết Kinh tộc thượng… à mà thôi, nói chung là một “con người” điển hình trong cái thế giới nhung nhúc yêu quái này.
Tiếp tục câu chuyện, Kiyo bảo nhiễm sắc thể thứ hai mươi tư, thứ không tồn tại ở người đến từ Trái đất, được gọi là nhiễm sắc thể Chromodivaenia, bởi chính thứ này quy định sự hình thành Divaenium sinh học trong tủy xương của các loài sở hữu. Divaenium, hay đá linh tử như cách gọi bình thường của người phương Đông, lại chính là kim loại đặc biệt “hay bị nhầm là đá cuội”, với công dụng chủ yếu chính là dẫn động nguồn linh lực. Nói cách khác, Divaenium sinh học trong tủy xương ngấm vào mạch máu và các mạch khác, như hệ thần kinh trung ương tập trung ở đốt sống cổ và cột sống, chính là thứ mà các học gia Đông Tây mấy ngàn năm qua đã gọi là “mạch linh lực”, “vòng ma pháp” hay bất cứ thứ gì đại loại.
Mọi loài động vật, kể cả yêu ma và con người, đều có Chromodivaenia trong cơ thể, tuy nhiên khả năng sử dụng ma thuật lại bị ức chế bởi những tác nhân khác nhau. Giả dụ như nhân loại, với vòng đời chỉ là trăm năm trên dưới, hầu hết các gen và cấu trúc cơ thể đã được biệt hóa cho việc sinh tồn với duy trì nòi giống, không nhấn mạnh đến khả năng dùng ma thuật. Lượng Divaenium sinh học trong cơ thể người có tỷ lệ thấp kỷ lục so với mọi loài khác, chỉ là một phần tỷ ly, tức một phần ngàn tỷ cân, trên mỗi phân khối tủy xương. So với người Gốp, vốn luôn bị xem thường, thì tỷ lệ này là một phần triệu ly một phân khối, người lùn là một phần chục triệu ly, trong khi loài khủng như Jira là… ba lạng mỗi phân khối! Cấu tạo xương, gen chủng loài, cấu trúc di truyền, đặc điểm sinh sống,… đều ảnh hưởng rất mạnh tới khả năng tạo Divaenium trong tủy, từ đó, qua nhiều thế hệ, sẽ dần thành đặc tính giống loài.
Ngoài ra, việc cơ thể có sinh ra Divaenium sinh học hay không còn phụ thuộc vào sự ảnh hưởng của môi trường sống. Khi sang Trái đất, Giao Long đã nhận ra cường độ tia cực tím của bên ấy mạnh hơn Thủy Tinh từ năm tới sáu mươi lần, gây thiêu đốt cực mạnh lớp da vốn kháng nắng rất tốt của “Thi Hoàng”, tới nỗi suýt thì bỏng toàn thân. Với hàng tá công trình chỉ ra rằng tia cực tím có ảnh hưởng tiêu cực tới Divaenium sinh học, đơn giản nhất chính là phá hủy cấu trúc thành của chúng và ức chế Chromodivaenia sinh thêm tế bào, thứ tia chết chóc ấy làm việc dùng phép ban ngày trở nên cực kỳ khó khăn.
Chưa kể, long mạch của Trái đất cũng rất khác. Vì lý do gì đó mà các dòng long mach của Trái đất không ngừng kiềm hãm sự phát triển linh lực. Nó không hút mất, nhưng cũng chẳng hề cho đi, chỉ kiềm hãm sự phát triển. Những nhà thần học, địa lý học, phong thủy và gần hơn là chính bộ môn vật lý năng lượng đã biết đến sự tồn tại của các dòng năng lượng ngầm chạy trong lòng đất, và chính tại những nơi chúng tập trung với mật độ dày đặc, sẽ kết tinh thành đá linh tử. các dòng này ở Trái đất lại khác: Nó mang theo một thứ “năng lượng tối” phá hủy mọi khả năng cơ thể con người có bô nhiễm sắc thể Chromodivaenia, và như thế triệt tiêu khả năng dùng ma pháp như trong các tác phẩm giả tưởng. Lý do thực sự là gì thì không rõ, chính Thủy Tinh còn chưa hiểu hết được thì ai còn rảnh hơi đi tìm hiểu tế giới khác?
Dĩ nhiên, cái gì cũng có ngoại lệ cả.
Nhưng Kiyo không nói ở đây. Không phải lúc này.
Cuộc nói chuyện kết thúc. Đưa đống giấy cho Dung, Kiyo bảo đó là nghiên cứu cũ khi cô còn trong Đại học, làm chung với một nhóm các nhà sinh học và bác sĩ hàng đầu thế giới. “Có thể nó sẽ có ích.”, cô bảo, “Nhưng cũng không chắc.”. Như thế, sự tồn tại của Chromodivaenia trong cơ thể chính là chìa khóa để dẫn linh lực và sử dụng ma pháp. Viêm có rất nhiều linh lực, lại sở hữu thuộc tính biến dị Huyền Viêm chỉ xuất hiện với tỷ lệ một phần mấy tỷ, nhưng do cơ thể, có lẽ, Kiyo bảo, không sở hữu thứ ấy thì có ra sao cũng vô dụng. Tuy nhiên, trong cái rủi lại có cái may, chính là nhờ không có Divaenium sinh học trong người, cơ thể con bé sẽ không phải chịu sự bạo loạn ma pháp như Giao Long từng bị. Toàn bộ linh lực cô bé sở hữu sẽ mãi nằm yên một chỗ, không động đậy gì, dĩ nhiên cũng không gây hại gì cho cơ thể. Ngắn gọn mà phán, vô thưởng vô phạt.
~oOo~
– Giờ chỉ còn chúng ta. Ta không nghĩ cô gọi ta đem Oa Lân theo chẳng vì lý do gì.
Vắt chéo chân trên chiếc ghế kim loại, Giao Long khoanh tay, ưỡn thẳng lưng mà cất giọng trầm trầm. Mắt cô hơi khép hờ: Không dưng mà Kiyo gọi cả mình xuống. Nếu chỉ là chuyện của Viêm thì hoàn toàn có thể báo cáo sau, nhưng xem ra không phải. Nếu vậy, chỉ có thể là cái gì đó khác. Một dư án hoàn toàn khác, chuyện nghiên cứu nằm ngoài tầm hiểu biết của cả những giáo sư thông thái nhất. Dựng kết giới, cô không muốn bị nghe lén. Đồng thời dùng phép điều khiển làm Oa Lân mất ý thức, cô để thuyền phó ngồi trên đùi mình, mắt nhắm nghiềm, ngủ ngon như đứa bé. Ôm cô ấy trong tay, hệt như người chị bên đứa em đã quá mệt mỏi, Giao Long chờ đợi câu trả lời.
– Tất nhiên.
Khẽ gật đầu, Kiyo trả lời. Nghiên cứu thực sự đằng sau tất cả của cô ấy chính là bí mật về thứ gọi là “quỷ hút máu”. Điều mà chính Giao Long, “Thi Hoàng” duy nhất của thời đại này, cũng muốn biết.
Tự dưng xuất hiện giữa thế giới như thể ai đó thả xuống, quỷ hút máu, hay phiên bản đầu chính là các thi quỷ, không có quan hệ họ hàng với bất cứ họ yêu quái nào, nhưng đồng thời lại có vô số điểm tương đồng với các loài khác. Được phân chính thức là “Necropholiae”, một họ sinh vật “độc lập” dựa trên đặc tính là những cái xác biết đi, từ rất lâu thi quỷ tồn tại là bí ẩn của giới sinh vật học. Không ai có thể tưởng tượng nổi một sinh vật mà mọi tế bào đều đã ‘chết” từ lúc mới sinh, vậy mà vẫn có thể thực hiện nguyên, giảm phân như mọi loài, lớn lên hết sức bình thường cũng như sinh con đẻ cái. Chất lượng tinh trùng và trúng của loài này thuộc dạng kém, và tuy thời gian mang thai dài, đến những hai năm, sinh đẻ khó, họ lại có khả năng “biến” loài khác thành đồng loại bằng chất độc đặc biệt ở răng, như quỷ hút máu phương Tây, hay móng tay, như các thi quỷ bên này.
Không một lý thuyết sinh vật học cổ điển nào có thể giải thích được nguồn gốc cũng như đặc tính sinh học chính xác của quỷ hút máu, do chúng quá đa dạng. Từ rồng, tiên, Alf, Gốp, dân lùn tới cả người thường, các đặc điểm đều có trong chủng này. Mang hình dạng một người với da dẻ nhợt nhạt, vẻ đẹp bất thường cùng đôi mắt đỏ ngầu đối với kẻ bị biến đổi thông qua ma pháp, hay đen tuyền cùng ba vòng đỏ với các thế hệ được sinh ra tự nhiên, là con cháu của “mắt đỏ”, những đặc điểm hình thể ấy là điểm chung duy nhất của họ Necropholiae. Một họ yêu quái mà trong cùng một họ nhỏ, một chi đã phân hóa rất mạnh, rồi khi xuống từng loài cụ thể còn rối hơn nữa. Việc quỷ hút máu lai tạo với các tộc khác và cho ra đời các thế hệ “lai”, mang đặc tính trội của giống kia nhưng vẫn giữ được các năng lực lẫn điểm yếu của quỷ hút máu, khiến mọi thứ càng phức tạp hơn.
Nhưng, đó là nếu quỷ hút máu từ đầu đã là một họ ‘tự nhiên”.
– Ý cô là?
Giao Long hơi nhướng mày. Có vẻ Kiyo đã biết điều “đó”.
– Lúc nãy tôi nhắc về homunculus, nhớ chứ? – Kiyo chống cằm, vắt chân lên – Sẽ thế nào nếu quỷ hút máu, không, thi quỷ vốn không phải một họ tự nhiên mà là homunculus do “ai đó” tạo ra?
– Đó là đáp án khả thi nhất.
Gật đầu, Giao Long nói.
– Khiyo, cô còn nhớ chuyện của bác sĩ Emmanuel Frankenstein chứ?
– Bi kịch của bác sĩ Frankenstein…? Ừ, nhưng… Chờ đã, cô chẳng lẽ…
– Nó cũng giống thế.
Câu chuyện về bác sĩ Emmanuel Frankenstein là điều mà ai cũng biết. là một người có thật sống tại thành phố Luebeck của Thánh quốc Romulusia vào thế kỷ mười bảy, ông là một trong những nhà giải phẫu học đầu tiên. Vốn là một Nibelgn, loài sinh vật mắt to và không có miệng, bác sĩ Frankenstein, cũng như đồng loại, bị ám ảnh với cái chết. Ông lao vào tìm kiếm sự bất tử, chính xác hơn là hồi sinh người chết, và trong thời gian đó đã vô tình phát hiện ra sự tồn tại của dòng điện sinh học cũng như tạo thành máy điện não đồ đầu tiên. Nhưng thế vẫn chưa đủ. Thí nghiệm trên ếch, rồi đến chuột, sau đó là mèo, chó, ông nghiên cứu ảnh hưởng của điện đối với cơ bắp và hệ thần kinh, kết hợp với một chút ma thuật đen học từ các phù thủy.
Sau cùng, bác sĩ Frankenstein đã tạo ra một homunculus, một tạo vật “hoàn hảo” sử dụng các mảnh xác khác nhau của những thiếu nữ chết trẻ trong thị trấn. Với sự sống mang lại từ sét, với dòng điện hàng triệu volt đánh vào hai điện cực to trên đầu, thứ ấy, Flander Frankenstein, chính thức sống dậy. Do lúc phẫu thuật đã vô tình làm dập ống thanh quản, cô bé không nói được, nhưng vẫn có khả năng nhận thức cao, cùng một vòng ma pháp hoàn chỉnh trong cơ thể. Lần đầu tiên trong lịch sử ma thuật, một homunculus được tạo ra với chủ yếu đóng góp là khoa học thực tiễn, phần ma thuật đóng vai trò chưa tới một phần mười, khiến các pháp sư khác kẻ ghen ghét, người ngưỡng mộ, lại mấy tên dị nghị, trong khi cộng đồng bác sĩ thì cho rằng ông đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp nên chống lại.
Dẫu thế, cũng không ai có thể phủ nhận việc Frankenstein đã tạo ra “sự sống”. Không phải ma thuật nuôi cấy phôi thai, không dùng các thuật trùng sinh người chết, không chiêu hồn, không phải homunculus nhân bản từ tế bào gốc như người Novgoroussiya đang làm, mà là từ chính các bộ phận rời rạc của những thiếu nữ khác nhau. Từ một đống xác chết tạp nham, người mà xã hội đương thời lên án là “kẻ tâm thần”, “bác học điên”, “ác ma” ấy đã mở ra một chân trời mới. Tất nhiên, không ai làm cái trò tạo ra sinh mệnh kiểu đó nữa. Cái ông ta thúc đẩy là việc phẫu thuật thay thế các bộ phận cơ thể, bắt đầu với ngón tay, ngón chân, bây giờ đã đến mức đổi được nội tạng, hay ai không thích thì gắn máy móc cũng được.
– Và ta không tự dưng nói về Frankenstein.
Nhắm mắt, Giao Long chép miệng.
– Mà là vì cách ông ta tạo ra Flan và cách cậu ấy chế ra Lệ rất giống nhau. Đều từ xác chết, nhồi nhét một đống các thứ nghe chẳng ăn nhập gì vô nhau, cuối cùng đều là những sản phẩm “cận hoàn hảo” của thời đại ấy.
– Cận hoàn hảo… hử?
– Ừ.
– Đối với khoa học, “hoàn hảo” chính là ‘tuyệt vọng”, vì lúc đó sẽ không thể tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo nữa. Các thi quỷ cũng vậy, cậu ấy không tạo ra bất kỳ thi quỷ “hoàn hảo” nào, mà cho họ một bộ gen mạnh mẽ, cấu trúc di truyền vững chắc để tự phối giống và phát triển theo thời gian.
– Ừm, đúng vậy thật.
Giới sinh vật học đã bế tắc suốt bấy lâu nay khi cố gắng tìm lời giải về nguồn gốc của quỷ hút máu, không ngờ chỉ đơn giản là họ đi sai đường. Quỷ hút máu, mà bản nguyên thủy nhất chính là thi quỷ vùng U Minh, là những sinh vật nhân tạo sinh ra từ ma pháp kiến tạo, kết hợp “Tử linh Thánh Pháp”, thứ ma thuật điều khiển linh hồn của Hồng Ma, kết hợp với những thành tựu khoa học của nền văn minh Xích Quỷ mà thành. Cơ thể đươc cải tạo để biến đổi tùy ý mà không chịu bất cứ giới hạn nào, khả năng khống chế khái niệm “bóng tối” để vật chất hóa và tạo thành trang bị, có thể sống đời đời không ăn uống, và trên hết là cái sự “đẹp từ huyết quản”, Hồng Ma thực sự đã tạo ra những sản phẩm tuyệt vời.
Với sự sụp đổ của cổ đế quốc Xích Quỷ, sự tuyệt diệt của chủng tộc này và nền văn minh một thời phồn vinh của họ biến mất, các thi quỷ, vốn là quân “nhân bản” giúp quốc gia ấy tồn tại và bành trướng tới cực điểm vào vương triều cuối cùng, đã tản ra khắp mọi nơi của Đế quốc cũ. Vốn trải rộng trên vùng lãnh thổ bây giờ là Viễn Đông, Đông Gaia và Bắc Afrikae, quân thi quỷ tản mát khắp mọi hướng. Không còn chỉ huy, họ tập hợp người dân còn sót lại của Xích Quỷ và từng bước xây dựng lại những khu định cư. Theo thời gian, sự cách biệt địa lý khiến thi quỷ vốn cùng một gốc phân hóa ra các nhánh khác nhau, chia thành nhiều chi, mỗi chi lại có nhiều loài nhỏ bên dưới.
Nhờ bộ gen đặc biệt Hồng Ma tạo cho, thi quỷ có khả năng sinh sản mạnh mẽ, tuy thời gian mang thai khá lâu. Những thế hệ sau sinh ra, lại mang trong mình gen đặc biệt giúp tự tạo đột biến di truyền để nhanh chóng thích nghi với môi trường, tự định hướng sự phát triển của bản thân cho phù hợp với khu vực sinh sống. Một trong những đặc trưng được phát triển trong giai đoạn này là khả năng hút máu: Chỉ lượng máu vừa thấm chót lưỡi là đủ cho một người trưởng thành no một tuần. Cường độ trao đổi chất được giảm xuống mức tối thiểu, chỉ vừa đủ để giữ cơ thể không thối rữa, không thành ổ bệnh dịch.
Xét ở góc độ một sinh vật thông thường, thì quỷ hút máu hiện tại đã đạp đổ mọi quy luật sinh học. Cơ thể chết từ khi mới là trứng trong tử cung mẹ, nhưng suốt thai kỳ vẫn nhận chất dinh dưỡng. Khi sinh, người mẹ vẫn có nước ối, vẫn có thể băng huyết, dù quỷ hút máu mà chết vì băng huyết thì đúng là trò cười cho thiên hạ. Mọi chức năng cơ thể đều bình thường, không có dấu vết thối rữa, không hôi thối, thứ duy nhất là tử khí lạnh cóng, mà đó thực ra lại là cơ chế hạ nhiệt, làm mát chủ động khi ở môi trường quá nóng. Thi quỷ có tuyến mồ hôi hay không tùy vào loài trước đó nó đã từng, nên người tạo ra, bà già tóc đỏ ba đầu ấy, mới làm trò này để “hạ nhiệt cuộc sống”.
Tuy nhiên, nếu coi là homunculus, người nhân tạo hay các sản phẩm của công nghệ tế bào, di truyền và gen, thì họ lại là những thành tựu xuất sắc bậc nhất. Từng bộ phận, từng chân tơ kẽ tóc đều đã được biệt hóa cho ba nhiệm vụ: Sinh tồn, chiến đấu và duy trì nòi giống. Khả năng biến đổi cơ thể thành vật chất tối cho phép thi quỷ có ưu thế vượt trội khi đánh với đối thủ ngang tầm, mạch ma lực cường hóa bẩm sinh giúp tăng mạnh tốc độ lưu thông linh lực, cùng chương trình huấn luyện sinh tồn giúp tạo nên những đạo quân hùng mạnh bậc nhất. cơ bắp sửa đổi, linh hồn nguyên vẹn, ý thức đầy đủ, khả năng làm đủ thứ, các pháp sư về sau có nằm mơ cũng không thể tạo ra thứ golem hay homunculus tốt tới vậy.
Hồng Ma không ngại dạy “văn hóa” cho các thi quỷ, dù biết điều đó có thể khiến họ nổi loạn, nhưng với việc phong ấn bằng cổ thuật và giữ lại tính cách cũ, tuyên truyền thêm lòng trung thành, cô ta đã tạo nên một đội quân bất khả bại. Tự cung tự cấp, không cần lương thực, lại có thể chiến đấu không dùng vũ khí, các thi quỷ đó đã giúp giảm gánh nặng hậu cần rất nhiều. Bản thân họ đã là ma đạo cụ, tự chuyển các hạt cấu tạo cơ thể thành vật chất tối, vật chất cao năng lượng, biến đổi cấu trúc cả trong lẫn ngoài thành những thứ chỉ tồn tại trong cơn ác mộng kinh khủng nhất. Lần thua đầu tiên và cũng là duy nhất, trớ trêu, chính là chống lại thế giới. Sau cùng thì quân đội hùng mạnh cũng không ngăn nổi thiên tai càn quét, hủy diệt nền văn minh cùng tất cả những gì thuộc về nó.
– Các thi quỷ do Hồng Ma tạo ra được gọi là “thế hệ đầu tiên”, bất kể chúng nó lệch tuổi nhau thế nào. – Giao Long bỗng chen vào – Va ta tin cô biết Oa Lân là một cá thể như thế.
– Đúng, tôi biết.
Kiyo gật đầu.
– Thực sự mà nói, tôi rất muốn đem cô ấy mổ banh ra để coi cấu tạo bên trong thế nào, có khác biệt gì với chúng ta không, nhưng xem ra không được rồi nhỉ?
– Ừ.
Giao Long hơi trừng mắt.
– Đụng vào con bé thì kể cả cô, giáo sư, ta cũng sẽ biến cô thành cái túi xách da rắn.
– Nên tôi mới không điên mà rớ vào!
Nhún vai, bác sĩ nói, ra vẻ thở dài:
– Ai chả biết Oa Lân là em gái rượu của Tổng lãnh đây chứ? Hai người thân tới mức buổi tối, để tránh Hồng Ma, cô ấy sẵn sàng ôm gối chạy qua ngủ ké phòng cô mà! Và còn trước đó nữa, phải không? Là con một, mà trong gia tộc này cũng thuộc vào hàng bé bậc nhất, việc cô muốn có em gái là bình thường!
– Ừ. – Giao Long gật đầu, rồi vuốt ve tóc Oa Lân – Oa Lân giống như em gái ta, còn Lệ là… nói thế nào nhỉ, chị nuôi? Mà giờ Lệ toàn xưng “em” với ta, nghe cứ kỳ cục thế nào ấy. Lễ nghi phong kiến quá mức rồi.
– Hì, có lẽ! Ba chị em các cô, còn Hồng Ma thì là tên bồ biến thái nhỉ?
– Vậy cô là cô giáo y tế gợi cảm?
– Chắc thế?
Khúc khích cười đến run run bờ vai, bác sĩ quay lại chủ đề chính.
Hiện tại, thế giới còn khoảng năm nhóm quỷ hút máu cơ bản còn tồn tại. Loài thi quỷ U Minh sống ở rừng U Minh Thượng với trung tâm quần cư là vùng quanh núi Thiên Cẩm, là cộng đồng đông nhất với hơn ba triệu tám trăm ngàn nhân khẩu. Thi quỷ vùng Hoa Đông ít hơn, rải rác tại bồn địa Tứ Xuyên, khu Mao Sơn và quanh sông Linh, tại thủ phủ Bạch Hạc của vùng Linh Giang, chính là nơi đối diện chiến trường Kinh Dương xưa. Nhóm này khá ít, chỉ khoảng hai triệu, chủ yếu là tàn dư sau khi Hồng Ma diệt các đại tông môn, đã biến các nữ võ giả xinh đẹp thành thi quỷ và cho “phối giống” tại chỗ, tạo thành vùng con lai rộng lớn. Ba nhóm kia, ở vùng bán đảo Hellena, Công quốc Valakia và Tây Gaia, phát triển không mấy nổi trội. Cộng cả lại chưa đến năm triệu, do “ma cà rồng” phương Tây không có ý thức duy trì nòi giống mạnh như bà con bên này.
Như vậy, bản chất của quỷ hút máu đã được làm rõ. Nghiên cứu này của bác sĩ Kiyo đã tiến hành hơn bốn mươi năm, với sự hỗ trợ từ Hồng Ma, Quân đoàn 1 và cả Công tước Wladislaus III Basarab của Valakia nữa. Ứng dụng cả thuyết tiến hóa, giải phẫu học tìm kiếm bằng chúng trong cấu trúc xương, mô và các hệ tuần hoàn, hô hấp,… cô đã hiểu được bí mật mà cả hàng trăm năm chưa ai lý giải nổi. Họ đã đi sai đường từ đầu, không biết được sự thật thi quỷ là một chủng homunculus đã trở thành sinh vật thật sự. Những điều này, nếu công bố thì thật sự sẽ gây chấn động giới sinh học lắm. Sẽ cần lâu hơn, Kiyo nói với “Thi Hoàng”, và thêm một số “bằng chứng” khác để điều này được công nhận.
– Vậy cô định làm gì khi đó?
Giao Long hỏi.
– Tôi chỉ là một bác sĩ ngoại khoa có chút đam mê với mấy vụ này.
Chớp chớp mắt, Kiyo nói.
– Nhưng tìm hiểu thực sự rất vui. Rất thú vị. Và nếu cô muốn, tôi có thể tạo ra một đội siêu chiến binh mới…
– Thôi khỏi, một đám là đủ mệt rồi!
Lần đầu tiên từ nãy giờ Giao Long cao giọng.
– Nhưng nếu có thêm vài đứa em, chắc cũng không tệ nhỉ?
– Ừm.
– Mà nói thế chứ, ta muốn con gái cơ! Con gái, con gái ấy! Kệ tía mấy thằng cổ hủ bảo chúng nó là vịt trời, ta vẫn muốn có một đứa! Thiên cũng cần anh chị chứ!
– Hửm? Nói vậy là cô đã chuẩn bị cả rồi à?
– Ừ.
“Thi Hoàng” gật đầu.
– Viêm sẽ trở thành con gái ta, và là chị Thiên. Còn chuyện con bé dùng ma thuật thì khi đó nhờ cô đấy, “tiên sinh”.
– Trời ạ, phải tới vậy sao? Cô đúng là thất bại trong chuyện làm mẹ mà!
Website đọc truyện online chất lượng hàng đầu việt nam, với nhiều truyện tiên hiệp, truyện kiếm hiệp, truyện ngôn tình, truyện teen, truyện đô thị được tác giả và dịch giả chọn lọc và đăng tải. Liên hệ về bản quyền/quảng cáo: [email protected]