Đại Lãnh địa Linh Giang, thủ phủ Bạch Hạc, tháng Ba ngày hai mươi.
Nơi quân cảng chìm trong hơi nước trắng xóa, hàng vạn binh lính, sĩ quan và công nhân đương tất bật chuẩn bị những khâu cuối cùng, sẵn sàng chuyến hành quân vào Nam. Ba trăm bốn mươi tàu dưới quyền Không hạm đội 2 và mười tám lộ quý tộc địa phương đã tề tựu cả về đây, căn cứ quân sự lớn nhất vùng biên giới phía Bắc này.
Nằm ngay bên bờ sông Linh, biên giới tự nhiên giữa Đế quốc Liên hiệp và vùng đệm phi quân sự với Hoa Đông, thành phố – pháo đài Bạch Hạc chính là cách vương triều Mạc cùng Tổng lãnh xứ này thị uy trước người láng giềng yếu đuối. Với sức chứa lên tới bốn trăm chiến hạm lúc cao điểm, quy mô chỗ này ăn đứt điện Cây Quế. Các cần cẩu hơi nước, biểu tượng cho nền công nghiệp Đế quốc, sừng sững vươn lên giữa không trung, cần mẫn bốc vác hàng hóa lên tàu.
Máy móc chạy liên tục, tiếng xình xịch từ những động cơ không ngừng cất lên, vang vọng giữa đất trời. Người ta ra lệnh, hò hét í ới, đi lại ngược xuôi như bầy kiến, trật tự không chút sai lệch. Không ai sai luật, tất cả đều nghiêm chỉnh làm việc bất kể có quản đốc đức canh hay không. Họ là lính, sống trong gia đình người lính, hưởng nền giáo dục kiểu lính, lớn lên trong một xã hội đậm kiểu lính. Cái chất lính tráng đã ăn sâu vào máu rồi. Đi lại, bốc dỡ, vận chuyển, kiểm tra, người với máy đều làm nhịp nhàng, đàng hoàng, không chút nào lỗi nhịp. Công việc cứ thế trơn tru, đến nỗi người nào đứng xem cũng phải nổi da gà vì ấn tượng.
– Hừm, vậy à?
Trong gian phòng riêng của chỉ huy hạm đội, Tổng lãnh Linh Giang, Đại Công tước Trịnh Hồng Đức khẽ nheo mắt khi nghe phân thân của Giao Long nói. Hơn ba ngàn tuổi rồi, ông lão dáng người quắc thước, râu tóc bạc phơ như cước, với đôi mắt màu nghệ vàng sắc lẻm như lưỡi lê vẫn còn minh mẫn lắm, vẫn chỉ huy được vùng lãnh thổ và hạm đội này. Thuộc thế hệ những khai quốc công thần từ cuộc tổng tiến công năm chín trăm hai mươi, hơn một ngàn năm qua ông và nhà họ Trịnh đã luôn giữ vững biên cương phía Bắc. Phong ba cuộc đời đã tôi luyện nên người chỉ huy lão thành với bản lĩnh vững tựa bàn thạch, còn thời gian mỗi năm lại điểm lên mặt ông những nếp nhăn đầy khí phách. Da dẻ đã chùng xuống nhiều, gò má hóp lại, nhưng trong ánh nhìn kia, lão vẫn cứ trẻ trung, vẫn anh dũng hệt như khi xưa xông pha nơi chiến trường.
Khoác trên mình bộ quân phục tiêu chuẩn của Không quân Đế quốc Liên hiệp với màu xanh biển đậm và hai hàng khuy vàng trước ngực, Tổng lãnh Linh Giang cũng đeo chiếc huy chương thập tự sắt như người đồng cấp phía Nam. Ông không đội mũ, cặp sừng rồng hai ngạnh trên đầu đã choáng hết chỗ rồi. Không như Hồng Ma có cặp sừng nhọn hoắt chĩa sang hai bên, sừng ngài Thủy sư Đô đốc lại khá tròn, như đầu dùi cui, và mọc từ trước trán, xuôi dần ra sau gáy. Là người trong quân đội, đầu tóc ông cắt khá gọn gàng, không để kiểu cách màu mè, duy chỉ có bộ ria mép vểnh lên và râu quai nón là để tự do. Áo bành tô khoác hờ trên lưng vẫn còn gắn cầu vai vàng, dập nổi ngôi sao sáu cánh lớn.
Đối diện ông, trên chiếc bàn làm việc lớn, một con quạ đen sáu mắt đang thản nhiên cọ mỏ vào cánh, giống như không có gì xảy ra vậy. Nó là phân thân của Giao Long, vốn dùng để do thám và truyền tin tới các đơn vị ở xa, và trong vài trường hợp, đóng vai trò như cái điện thoại vậy. Qua thứ sinh vật đen đúa, xấu xí này, Giao Long có thể nói chuyện vượt khỏi những khoảng cách cực xa mà không cần bất kỳ ăng ten vô tuyến hay đường dây nào cả. Quay qua quay lại, trong căn phòng đầy ắp các kệ sách, hải đồ và những kế hoạch tác chiến này, chỉ có hai người. Tổng lãnh Linh Giang ngả lưng trên chiếc ghế mây, đối diện bàn làm việc, trong khi quạ Giao Long cứ chút chút lại bẻ cổ qua lại, nhìn đống tài liệu trên bàn và cả mấy tấm bản đồ lồng khung treo khắp phòng.
Nhìn một hồi, Giao quạ mới nói tiếp:
– Năm nay sẽ lớn lắm đây. Hồng Ma huy động một nửa số quân đổ bộ của bả, và dĩ nhiên…
– Quân đoàn 1.
Chép miệng, ông Đức nhắm nghiềm mắt, khoanh tay trước ngực, nhớ lại ngày xưa. Những ký ức ấy, ký ức về cuộc tổng phản công một ngàn năm trước, sẽ không bao giờ phai nhòa. “Quân đoàn 1”, đội quân đặc biệt tinh nhuệ dưới trướng Hồng Ma, đã một mình càn quét hơn mười vạn quân địch, phá nát hàng phòng ngự đầu tiên của Hoa Đông tại quận Tĩnh Hải, tên gọi Đại Việt khi ấy.
Những tử thần trong bộ đồ đen, họ lướt đi như bão tố, hủy diệt mọi thứ cản đường. Với hàng trăm chủng yêu ma, đội quân đó luôn là tiên phong, cùng Quân đoàn 2, bẻ nát mọi kế hoạch phòng ngự. Năm vạn yêu quái thi quỷ hóa, giữ nguyên sức mạnh lẫn trí tuệ khi còn sống, lại được thêm khả năng hồi phục cực cao và nguồn linh lực vô tận lấy từ chủ nhân, đã khiến ngay tới các tông môn mạnh nhất cũng sụp đổ.
Và cũng từ đó, Hồng Ma không dùng họ nữa. Nhiều người nói rằng vì thấy đội quân đó quá nguy hiểm, cô ta đã giữ chúng trong quan tài, giấu trong cái bóng của mình, chỉ dùng các quân đoàn còn lại. Hơn mười thế kỷ trôi qua, Quân đoàn 1 trở thành một huyền thoại, huyền thoại về đội quân bất khả chiến bại trong tấm áo choàng đen của Hồng Ma.
Thế hệ ông chứng kiến đại quân ấy xông pha chiến trường, khi chỉ mới có hai quân đoàn, nên hiểu rất rõ sự khủng khiếp chúng gây ra. Nhưng cùng thời gian, người ta cứ ngã xuống mãi. Gia tộc Trịnh, vốn là long nhân, có tuổi thọ trên dưới hai ngàn năm mới sống được tới giờ. Mà ngay cả đám con cháu đời sau cũng chẳng mấy ai tận mắt chứng kiến cái đội quân ma quỷ đó cả. Những yêu quái mạnh ít khi nói về chúng, còn đám trẻ thì không tin vào truyền thuyết nữa.
Mở mắt, Tổng lãnh Linh Giang lại nhìn con quạ. Tuy chỉ là phân thân, nhưng nó vẫn toát lên khí tức cuồn cuộn, lạnh lẽo ghê người của “Thi Hoàng”. Uy quyền có thể khiến cả lớp vảy rồng trên người ông muốn bật lên, râu tóc dựng đứng vì lạnh và e sợ. “Thi Hoàng”, cái tên ấy chưa bao giờ dễ chịu cả. Thứ huyền thoại của huyền thoại, chủng loài vượt trên mọi giống thi quỷ, hoàng đế của đám quỷ hút máu bây giờ đang ngồi ngay trước mặt ông.
Vẫn là người phụ nữ ấy, với nước da tái xanh chết chóc, cùng đôi mắt đen sâu hoắm, không có chút gì giống người. Kể cả đám thi quỷ của Quân đoàn 1, dù vốn từ vô vàn chủng loài khác nhau, vẫn mang chút gì đó giống với sinh vật sống. Nhưng cô ta lạnh ngắt, lạnh như băng, như sương giăng nghĩa trang đêm đông không trăng vậy. Dù mang long tính, ông vẫn sởn gai ốc khi phải đối diện cô, đứa cháu gái của người hậu bối quá cố.
Dẫu thế, là một Tổng lãnh, chỉ huy quân sự thuộc hàng cấp cao nhất và cũng là lãnh đạo vùng Linh Giang, ông không thể tỏ ra yếu thế trước “đứa trẻ” mới hơn bốn mươi tuổi đời này được. Hít một hơi, vị tướng già, với những chiếc vảy vàng đã ngả màu vì năm thắng nằm dài trên má, đè lên mấy nhếp nhăn, nói:
– Kế hoạch đã thông qua rồi. Lần này Hồng Ma định làm thế giới bất ngờ… Bà già đó vẫn vậy, phải chứ?
– Lầy lội. – Giao quạ kêu – Nhưng ta thích.
– Chồng hát vợ khen à?
Ông lão chống cằm, nheo mắt nhìn quạ. Hai người không nói nhảm nữa, mà vào chuyện chính. Không hạm đội 2 lần này chỉ huy động khoảng một trăm năm mươi tàu, số còn lại đến từ các lãnh địa chư hầu. Cũng như Không Hạm đội 6, họ chỉ mang một phần quân đi, còn lực lượng quý tộc địa phương vẫn chiếm đa số. Tuy nhiên, khác với Giao Long liều lĩnh gọi quân lực phòng ngự vùng đảo phía Nam, Tổng lãnh Linh Giang lại chỉ huy động các phân đội nằm sâu trong đất liền, gần với Đại Việt, ngay cả các quý tộc cũng nằm sâu bên trong.
Ngoài ra, do cuộc tập trận lần này có sự tham gia chính thức lần đầu tiên của các cỗ “xe bay”, nên kế hoạch đã thay đổi ít nhiều. Họ sẽ chú trọng vào năng lực tác chiến của loại vũ khí mới này, đồng thời, với tầm nhìn của các lãnh đạo, sẽ phải thực hiện tác chiến phòng không quy mô lớn như cái thời còn bắn với các kỵ sĩ Wyvern. Việc này khác hẳn tác chiến hạm đối hạm, khi vũ khí chính sẽ là pháo cỡ nòng nhỏ, pháo bắn nhanh và các vũ khí phòng không khác, trong khi những khẩu pháo hạm cỡ lớn sẽ chỉ bắn đạn nổ phân mảnh hỗ trợ tác chiến cho tổ đội phòng thủ. Đội hình cũng sẽ thay đổi, yêu cầu phù hợp với chiến tranh chống kẻ địch nhỏ, cơ động cao hơn là đối đầu đọ pháo truyền thống.
Họ cũng sẽ tiến hành tập đổ bộ quy mô lớn, với việc triển khai đến ba tập đoàn quân bình thường và năm tập đoàn quân thi quỷ, để giả định đổ bộ chiếm thành phố và thực hiện giao tranh đô thị. Điều này đồng nghĩa với việc tám trăm ngàn quân đổ bộ sẽ được huy động, tương đương một phần tư tổng quân số của quân chủng này. Đi cùng lực lượng ấy là hai trăm sáu mươi chiếc zeppelin, vốn là các “cựu” thiết giáp hạm hoán cải, bỏ bớt một phần hỏa lực và thêm không gian chở lính, tham chiến.
Nhảy từ zeppelin chưa bao giờ là việc dễ dàng, nhất là khi triển khai quân lực lớn thế này. Cả mấy sư đoàn, đều là yêu quái cả, sẽ nhảy tự do và dùng chính ma pháp để hạ cánh. Con người và á nhân không được gia nhập quân đổ bộ vì những đòi hỏi ngặt nghèo của nó. Điều này đồng nghĩa với việc, nếu đây là một cuộc chiến thực sự thì nó sẽ là trận đổ bộ cấp chiến lược chứ không ít. Ngoài ra, do mục đích chính của việc tập trận là để học viên năm cuối được trực tiếp thao tác, hoạt động và chiến đấu trên hạm, nên không thể thiếu những màn thao diễn bắn nhau bằng đạn sơn, và xạ kích dùng đạn thật. Lứa quân đổ bộ lần này một phần cũng thuộc thế hệ mới đào tạo, gồm các học viên năm cuối và lính nghĩa vụ lứa hăm hai – hăm ba nên phải vừa đảm bảo tính thực tế tới mức tối đa có thể, nhưng cũng phải chắc chắn an toàn, không được để xảy ra chuyện gì đáng tiếc.
– Vậy thôi.
Giao quạ gật đầu, kết thúc cuộc nói chuyện. Ngài Tổng lãnh cũng xong rồi. Nhìn chiếc đồng hồ quả lắc trên trên tường phía sau, ông thấy đã chín rưỡi sáng. Ngoài kia, anh nắng vàng tươi hồn nhiên chiếu rọi cả quân cảng, phủ lên màn sương khói trắng xóa kia cái sự sống hồn nhiên, tươi trẻ của nó. Nắng rất đẹp, ông nghĩ, nhất là khi nó xuyên qua sương mờ, vượt khỏi làn hơi nước dày đặc mà chiếu rọi mặt đất này. Dưới cái nắng đầu xuân, con người, yêu quái và cả máy móc đều tươi tỉnh, trẻ trung hơn hẳn. Ai cũng vui vẻ, hòa đồng, làm hết sức mình. Kỷ luật giữ nghiêm, nhưng không hề độc đoán, tàn bạo.
Khẽ nhắm mắt, ông nói:
– Chúng ta đang thay đổi rồi.
– Đúng. Đúng vậy.
Gật gù, Giao quạ trả lời. Cô hiểu điều đó, dù chân thân đang ở cách đây hàng ngàn cây số. Bất kể Đại Việt, Linh Giang hay U Minh, Đế quốc đang dần thay đổi. Chế độ quân sự bắt buộc trên mọi công dân, cùng với bộ máy tuyên truyền kiệt xuất đã hoạt động suốt hơn ba thế kỷ, đã tạo nên một xã hội “lính” tuyệt vời, nơi tất cả mọi người đều đã, đang hoặc sẽ là lính, trừ một số đối tượng cụ thể. Môi trường quân đội trui rèn cho người dân bản lĩnh vững vàng, các lớp học chính trị giúp họ có niềm tin son sắt vào Hoàng tộc và chế độ, còn cuộc sống quân ngũ đã hun đúc lên những công dân kỷ luật cao, đề cao luật pháp và trật tự, nhưng vẫn không đánh mất bản sắc riêng của mình.
Họ, người dân đế quốc, vẫn là những cá nhân năng động, nhưng bên cạnh đó, mối ràng buộc giữa người với người vẫn rất sâu đậm, tạo nên một khối thống nhất. Thống nhất thành một khối hoàn chỉnh, điều này khác hẳn việc gom những người ngẫu nhiên lại thành một nhóm. Cái đoàn thể bao giờ cũng to hơn tổng các thành phần, cái chung lớn hơn cái riêng, nhưng cái riêng sinh ra cái chung rồi từ nền tảng chung đó, người ta lại hình thành những hướng phát triển riêng của mình. Hệ thống giáo dục bắt buộc, nền y tế hàng đầu, cũng như hệ thống phát ngôn, truyền thông của Nhà nước luôn hoạt động hết sức mình đã khiến nhân dân trở thành binh sĩ từ tận trong huyết quản.
Chế độ này khác hẳn nền quân phiệt bức bách của phương Tây, ngay đến đồng minh Valhöll cũng không hoàn toàn giống. Đế quốc thay đổi từng ngày, dù chậm chạp, nhưng đã cởi mở hơn trong sinh hoạt xã hội. Binh lính, và cả dân chúng nữa, không còn phải cứng nhắc làm theo các điều lệ, quy định này kia. Họ có thể, trong khuôn khổ cho phép, làm mọi điều mình muốn. Nếu sai, luật pháp sẽ xử lý. Nhờ vậy mà quốc gia này mới theo đường lối quân phiệt… tương đối ôn hòa suốt hàng trăm năm nay, với chỉ hai cuộc nổi loạn từng diễn ra. Người ta đã quen với lề thói kỷ luật cao, tinh thần trách nhiệm và sự trung thành, nhưng vẫn là những người tự do chứ không bị chèn ép quá nhiều.
Vì vậy, ngài Tổng lãnh mới nói nó thay đổi. Thay đổi từng chút, chầm chậm, để tránh người dân sa vào thứ ma túy mang tên “tự do dân chủ”.
Cuộc đối thoại chấm dứt. Chỉ trong chớp mắt, con quạ đen đã bùng cháy, biến thành ngọn lửa đen tuyền rồi mất hút vào hư vô. Giao Long thu phân thân về rồi. Còn lại một mình trong phòng chỉ huy, Tổng lãnh Linh Giang mới ngả lưng ra sau, thư giãn sau cuộc nói chuyện không ngờ ấy. Trong năm Tổng lãnh kia, chẳng ai khiến ông thấy khó gần như Giao Long, và những người kia cũng thấy cô gái đó có gì đó rất lạnh gáy. Hừm, chắc do chưa quen thôi.
Lần đầu tiên trong lịch sử một “Thi Hoàng” lại trở thành Tổng lãnh, trước đó chưa bao giờ có điều này cả. Giao Long rất mạnh, mạnh hơn bất cứ thi quỷ nào Hồng Ma từng sở hữu. Mạnh, tàn nhẫn, vô nhân tính, người đàn bà có thể thản nhiên chém bay đầu chị mình rồi đạp lên nó như thể đó chỉ là thứ rác rưởi bẩn thỉu gì đó, giờ lại đem cháu gái lên tàu làm con dê tế thần, ai biết được cô ả mưu tính gì? Điệu bộ khả nghi, tính tình cổ quái, lại thêm cái hào quang lạnh tanh cố hữu và vẻ mặt vô hồn, ngay cả thi quỷ cũng phải sợ cô một phép. Ông nghĩ, sống cả ngàn năm rồi mà chỉ mới mấy lần run tới vậy. Uy lực áp đảo hoàn toàn, khí thế toát lên thật hệt như một bạo chúa khát máu, coi mạng người như cỏ rác.
Nhưng điều đó giờ không quan trọng.
Để chuẩn bị cho cuộc diễn tập hằng năm, hai người phải hợp tác thật tốt. Chưa kể, năm nay trước khi đến bãi tập truyền thống, hai bên sẽ cùng Không Hạm đội 1 thực hiện diễu hành ở kinh đô Đông Kinh, nhân kỷ niệm mười năm ngày Bệ hạ lên ngôi. Thực hiện điều này tại kinh thành, trước toàn thể các quan chức cấp cao, các tướng lĩnh cũng như đại sứ nước ngoài không phải trò đùa. Không chỉ cho lính đi ruỳnh ruỳnh trên đường, bồng theo mấy khẩu K20 mới, việc này phải đảm bảo chứng minh cho các siêu cường khác thấy mười năm qua, Bệ hạ và toàn thể nền quốc phòng cả nước đã đạt được những thành tựu gì, đã khắc phục các điểm yếu gì. Nó cũng sẽ là cơ hội phô diễn uy lực Không quân, mời chào các đối tác thương mại quốc phòng, chuẩn bị những thương vụ có giá hàng trăm triệu quan.
Nghĩ về mấy vấn đề đó, ông lại thấy nhức đầu. Già cả rồi, có lẽ phải sớm nhường cái ghế này lại cho đám con cháu thôi. Nhưng khổ, con cháu trong nhà đại đa số đi theo quân nhân chuyên nghiệp, hay sĩ quan chuyên mảng nào đó, chứ chẳng ai theo hướng tham mưu cả. Vậy thì không đủ điều kiện để lên làm đại tướng, càng không có khả năng trở thành tướng năm sao. Nhà lại ít con cháu, long nhân vốn sinh đẻ khó mà. Nên bây giờ, tính đến chuyện tìm người thừa kế thì lại loạn hết cả lên, nên ông vẫn phải tạm giữ chức Tổng lãnh này. Ngoài ra, ngài Tổng lãnh cũng lo, nếu mình xuống rồi, có đứa nào đủ khả năng giữ không? Nếu không, chắc dòng họ này phải buông luôn tước Đại Công mất.
Xem ra thời thế thay đổi thật rồi.
Nhìn ra cửa sổ, thứ ngài Đức thấy là Không Hạm đội 2, cùng những chiến hạm của quý tộc dưới quyền, đậu ngay hàng thẳng lối trên cảng Bạch Hạc. Ba trăm bốn mươi tàu cùng vào nơi này, chia vào mười khu lớn, với các ụ chuyên dụng hỗ trợ tàu bay. Quân số này không phải nhỏ: Ba trăm bốn mươi chiến hạm các loại có thể sánh ngang không lực một số nước hạng hai rồi.
Đa số chúng là khu trục, với lớp Xích Quỷ làm chủ đạo, trở thành xương sống cho hạm đội. Loại tàu ấy thực sự khá dễ chế tạo, và bây giờ Bộ Tổng Tư lệnh vẫn đang cho sản xuất để thay thế dần lớp khu trục Lạc Hồng cũ. Tuy nhiên, nhiều quý tộc vẫn dùng loại tàu cũ kia, vì chúng vẫn đảm bảo độ tin cậy cao, dù mang hình dáng thuôn dài kém cơ động đặc trưng của zeppelin chứ chẳng thể nhanh như loại tàu mới.
Gió lên rồi. Lớp hơi nước đang tan dần. Từ phòng mình, ngài Tổng lãnh dễ dàng quan sát được hết thảy. Ông không nhìn công nhân nữa, đã quá nhiều rồi. Bây giờ, thứ đáng quan tâm hơn là các chiến hạm. Hai mươi tàu Định Quốc, khoảng năm mươi tuần dương và tám mươi khu trục Xích Quỷ, cùng rất nhiều chiếc khác đến từ đủ mọi vùng trong đại lãnh địa này. Hiệu kỳ gia tộc bay phấp phới, với nhà họ Trịnh là hai chữ thập nằm chồng lên nhau, tạo thành từ cây bút bi đứng thẳng, thanh gươm nằm ngang cùng búa và cày bắt chéo phía sau trên phông nền xanh dương, màu của Không Hạm đội 2. Tất cả tàu dưới quyền ông, dù trực tiếp hay gián tiếp, đều sơn màu này cả, cũng như Không Hạm đội 6 dùng toàn màu đen, nhưng không mấy quan tâm tới quân địa phương.
Tại đây, ụ đặc biệt của khu số Một, chiếc kỳ hạm Mê Linh của ngài Tổng lãnh đang hoàn tất những khâu kiểm tra cuối cùng. Khác với lớp Định Quốc, chiếc Mê Linh, thuộc lớp tàu cùng tên, là những “tuần dương chiến hạm”, tức loại tàu chiến đặc biệt mang hoa lực của thiết giáp hạm nhưng chấp nhận hi sinh lớp giáp ngoài để đánh đổi lấy tốc độ và sự cơ động. Vì thế, thiết kế tàu cũng khác hẳn Định Quốc, khi phần mũi nó vẫn mang ít nhiều đặc điểm của zeppelin, với mũi nhọn trung tâm và thiết kế phồng ra như ngọn thương.
Chiếc Mê Linh có hình dáng gần tương tự Hồng Ma, trừ việc nó không sở hữu lớp “cánh” đệm chạy dọc hai bên mạn và cặp cánh lớn, thay vào đó lại là hai đôi cánh nhỏ, một ở mũi và một ngay dưới cột buồm, bố trí động cơ cánh quạt đồng trục kép trước – sau để tạo lực đẩy. Từ đây nhìn xuống, thật khó để trông toàn cảnh con tàu, nhưng ngài, bằng thị lực phi thường của loài rồng, vẫn nhìn được dàn vũ khí đáng tự hào của nó.
Sức mạnh của một tuần dương chiến hạm đến từ hỏa lực và tốc độ, trong đó dàn pháo hạm tốc xạ cỡ đạn ba trăm tám mươi ly nằm trong ba tháp nòng đôi trước mũi tạo thành cú đấm thép phía trước, hương trên boong. Các khẩu đội hạng hai nằm dọc theo hai bên mạn tàu, trong những tháp hình trụ bố trí ở hốc sàn, cùng nhiều ụ phòng không sáu nòng đôi bốn mươi ly. Thiết kế như vậy để đảm bảo chiếc Mê Linh có đủ hỏa lực để đánh tan bất cứ chiến tuần dương, khu trục hay con thằn lằn bụng bia cánh dơi nào dám lảng vảng lại gần, và tốc độ, được đẩy chính từ hai trục sáu cặp, giúp nó thoat được hầu hết thiết giáp hạm.
Hệ thống quan sát quang học, điều khiển hỏa lực, các máy đo xa và AL bố trí trên thượng tầng dạng cột buồm ba chân cách tân giúp nó nhắm bắn tốt hơn hẳn so với những tàu dùng cột buồm dạng trụ lưới phương Tây, đồng thời tăng khả năng chống chịu hơn hẳn. Tuy nhiên, việc mang giáp chỉ dày bằng ba phần tư các thiết giáp hạm tiêu chuẩn khiến nó mỏng manh hơn rất nhiều, nhất là trong một hỗn chiến giữa các tàu. Một loạt pháo chính khai hỏa toàn lực từ Định Quốc là quá đủ để Mê Linh thất trận, và thuyền trưởng sẽ nhảy sông tự vẫn… đó là nếu có sông mà nhảy.
Con tàu này sẽ ăn đủ hành trong một trận bắn pháo tay bo cự ly gần, nơi tốc độ không thể làm gì nhiều và lớp giáp chỉ dày như vải bò sẽ khiến đạn pháo đục mạn ngọt xớt. Một quả pháo bắn thẳng hầm đạn cũng dư sức kích hoạt nổ dây chuyền, và lúc đó thế nào cũng có ít nhất một tháp pháo bị thổi tung lên, còn con tàu thì gãy đôi và rơi ngay. Vì những điểm yếu đó, không chỉ ngài mà cả những nhà lý luận không lực trên khắp mọi miền thế giới, đều biết tuần dương chiến hạm nên đi riêng, hoặc tạo thành một hải đội độc lập. Chúng nên được dùng cho các nhiệm vụ tuần tra không phận, làm chỉ huy những nhóm cơ động với tuần dương và khu trục, chứ rất khó đứng chung một hàng với các thiết giáp hạm tuy chậm chạp nhưng giáp dày như đắp đá tảng lên.
Và trong Không Hạm đội 2, ngài Đức sở hữu bốn phân đội như vậy.
Nhắm mắt lại, vị chỉ huy già nhẩm tính. Mỗi phân đội gồm mười tuần dương chiến hạm, nghĩa là ông có bốn mươi tàu, thêm Mê Linh, là bốn mươi mốt. Trong cái thời kỳ người ta còn cười vào mặt Giao Long vì đề ra học thuyết tác chiến cơ động, linh hoạt vận động chiến thì ông, dù cảm thấy cô gái ấy rất khó gần, vẫn sẵn lòng hỗ trợ. Với kinh nghiệm của người đã cầm quân hơn một ngàn năm, ông biết chiến tranh là thứ vận động không ngừng, và không chiến, với bản chất “động” của nó, sẽ không dừng lại ở mức đại hạm khủng pháo.
“Hỏa tiễn”, những đầu đạn bay tự hành đã bắt đầu đóng vai trò của ngư lôi trên trời. Một đội khu trục trang bị đầy hỏa tiễn có thể khiến cho thiết giáp hạm về vườn, chưa kể với tầm bắn vài chục tới cả trăm cây thì dù không chính xác lắm, chúng vẫn sẽ gây kha khá thiệt hại nếu bắn số lượng lớn. Hỏa tiễn do khu trục mang, tuần dương đánh được khu trục, còn thiết giáp hạm đánh được tuần dương, về lý thuyết là thế.
Nhưng thiết giáp hạm lại quá ì ạch, chậm chạp, nên bên Albion mới cho ra lò tuần dương chiến hạm để làm cái nhiệm vụ đó. Ông thấy ghen tị với người Albion, họ luôn có những sáng kiến hay như vậy. Học thuyết cơ động của ông, với chủ trương dùng tuần dương chiến hạm đánh đột kích quân chủ lực địch rồi bỏ chạy, cũng như tấn công giáp mặt mấy phân đội nhỏ hơn, đánh diệt tàu hậu cần, zeppelin tới giờ vẫn còn ít nhiều hiệu quả. Vì vậy, tuy hạn chế, Không Hạm đội 2 vẫn duy trì một lực lượng nhỏ các tàu đó, bên cạnh hỏa lực chính Định Quốc và xương sống là lớp Xích Quỷ.
Cốc cốc.
Có tiếng gõ cửa.
– Vào đi!
Với giọng to, ồm ồm, dầy nội lực đặc trưng của thống lĩnh chỉ huy chục vạn quân, ngài Tổng lãnh nói như ra lệnh cho người ngoài kia. Một tiếng “Xin phép.” Vang lên, rồi cánh cửa thép lớn mở ra. Từ hành lang, một sĩ quant rung niên, vẻ mặt khoảng gần năm mươi, bước vào. Cũng như Tổng lãnh, ông chú ấy có cặp sừng, đôi mắt và lớp vảy rồng đặc trưng trên mặt, lan xuống gò má và phủ cả ở mu bàn tay. Mặc bộ quân phục Không quân tiêu chuẩn, trùm áo bành tô với vòng tay mang hàm Đại tá, người đó vô phòng, đoạn để tay lên ngực rồi giơ cao, hô to:
– Quyết thắng!
– Quyết thắng!
Ngài Tổng lãnh cũng đứng lên, chào lại, nhưng lại để tay kiểu lính tiêu chuẩn. Đó là cách chào thường thấy giữa hai người khác quân hàm. Cầu vai bốn sao năm cánh bạc khẳng định người kia là Đại tá, và với vẻ mặt vẫn chưa lấy gì làm già cả, có lẽ mới được phong theo năm phục vụ. Tuy nhiên, để lên phục vụ trong kỳ hạm của một lực lượng lớn thế này, nhất định không thể là kẻ bất tài. Dù cho đó có là con ông cháu cha, luật thép vẫn không cho phép. Trường hợp “lách luật” duy nhất từng được ghi nhận trong lịch sử Đế quốc là Hồng Ma đem con mình lên tàu: Cái pháo đài bay ấy được đăng ký là “tàu tư nhân” của Giao Long, nên điều đó được phép! Còn ở đây, dù Mê Linh có là tàu chỉ huy, thì việc dùng quan hệ để có chỗ đứng trên này vẫn là không thể.
Nhưng trên đời này, cái hư cấu gì cũng xảy ra được, bất kể nó hư cấu tới đâu. Viêm còn xuyên không được thì còn gì không thể nữa chứ?
Đối diện ngài Tổng lãnh bây giờ là người con trai thứ, Trịnh Hữu Nghĩa. Thuộc thế hệ những người đã sống từ thời Mạc Thành Tông duy tân, người này đã luôn phục vụ trong quân đội với tư cách là sĩ quan đặc trách chỉ huy tàu. Từ thời tàu bay còn dùng buồm, tới những tàu hơi nước sau này, anh luôn phục vụ trên soái hạm của cha. Về nguyên tắc, con ông cháu cha không có ưu tiên gì hơn người thường, nhưng bổ nhiệm một sĩ quan có năng lực vào dưới trướng mình là điều bình thường, đặc biệt khi Tổng lãnh có gần như toàn quyền với các lực lượng vũ trang trong xứ mình. Vì vậy ông chú mày râu nhẵn nhụi, tóc chải xuôi sau đầy bảnh bao này mới trở thành thuyền trưởng Mê Linh, một phần cũng vì thâm niên lái tàu đã tính bằng thế kỷ của ông.
Lấy thêm một chiếc ghế mây, ngài Tổng lãnh bảo con trai mình ngồi xuống. Cuộc nói chuyện giữa hai cha con không có gì quá nhiều, chủ yếu xoay quanh vấn đề tiếp tế và chuẩn bị tàu. Tuy nhiên, Đại tá Nghĩa bất chợt lại bảo:
– Cha có biết việc tàn dư của “chúng” vẫn còn không?
– Có, có biết. – Ngài gật đầu.
– Con vừa nhận tin, khoảng sáu tên vừa bị tóm sau khi cố gắng phát mấy tờ rơi tuyên truyền kích động người dân. Theo cha thì sẽ bao lâu nữa tới lúc chúng ta nhổ tận gốc đám phản động đó?
– Còn lâu lắm, con trai à.
Khẽ lắc đầu, ngài bảo khi xưa, để giữ quyền lực tối cao với quân đội, các Tổng lãnh đã chấp nhận từ bỏ phần lớn quyền hành chính trị đối với chính lãnh địa của mình. Như vậy, Hội đồng Liên hiệp, chủ trì bởi quý tộc địa phương, đại biểu các bang tự do và một nhóm những cán bộ Trung ương sẽ thay thế hó trong hầu hết thời gian làm việc về những vấn đề phi quân sự. Tuy các Tổng lãnh vẫn có tiếng nói, và khi cần có thể dùng quân đội đảo chính hội đồng này, điều được Hiến pháp cho phép với điều kiện không đổ máu và quy mô không quá một quân đoàn cùng ba mươi tàu, thì họ vẫn ít khi can thiệp chính sự. Vì vậy, Đế quốc mới duy trì cái vỏ bọc “dân chủ”. Do các đại biểu được dân bầu, mà vẫn giữ được cái cốt lõi quân đội của mình.
Tuy nhiên, đám phản động lại khác. Chúng nó là những kẻ đã sa ngã, hay đám ăn chơi lêu lổng, đạo đức suy đồi không có gì làm nên mới đi chống phá Nhà nước. Những người có công ăn chuyện làm ổn định, có đầu óc biết suy xét thấu đáo sẽ không bao giờ ngu – ngài dùng đích chữ “ngu” – tới mức đi đạp đổ tô cơm đang nuôi mình cả. Nhưng phản động thì không thông minh đến thế. Có thể chúng cố trốn nghĩa vụ, đào tẩu ra nước ngoài, ra một quốc gia nào đó có cờ sọc trắng đỏ và rất nhiều sao, sau đó nhiễm cái chất dân chủ thái quá của đám đó, rồi quay về và định “làm cách mạng” các kiểu.
Với lá cờ vàng và ba sọc đỏ, cùng bông hoa trắng năm cánh trong vòng tròn xanh làm biểu tượng, người ta không thấy chúng, những kẻ tự xưng là “Việt quốc Canh tân Cách mạng đảng”, hay “đảng Việt Tân”, làm được gì có ích cho đời cả. Ngoài chuyện bêu xấu chính phủ trên mấy tờ báo lá cải nước ngoài kém danh tiếng và kêu ăng ẳng như lũ cún phốc, đám “đảng Việt Tân” đó chỉ có thể xin trợ cấp… thất nghiệp từ chính quyền nước sở tại. Chúng ngồi họp trong cái nhà xí công cộng nào đó, rồi chụp ảnh, đăng báo như thể ghê lắm, ảo tưởng mình là chính phủ lưu vong gì đó, lâu lâu về phát cho bà con dăm ba tờ “u ết đê” rồi kích động bạo loạn. Và thường thì kết cục của đám ba que xỏ lá ấy chẳng bao giờ tốt cả.
Dừng một chút, ông xua tay, bảo:
– Đám não tàn thời nào cũng có, hơi đâu con lo. Cha biết bên đó, mạng lưới chúng nó đã mở rộng sang tận mấy khu định cư của người phương Đông khác, nhưng tạm thời giờ chưa nhổ được! Đánh rắn động cỏ, phía trên đã ra chỉ thị đừng làm lớn. Tới khi cơ hội chín muồi, chúng ta sẽ xử toàn bộ đám phản quốc, vong nô đó!
– Vậy là mọi thứ đã tính toán đâu vào đó cả rồi à? – Đại tá nheo mắt – Cha, nếu con nói, giả sử như đám Việt Tân đã len lỏi vô tới quân ngũ rồi thì sao?
– Ý con là…
Nhướng cao chân mày, ngài Tổng lãnh đã ngầm hiểu ý con mình. Ông liền đưa tay xuống thắt lưng, nơi vẫn luôn giắt khẩu súng lục K93. Cùng lúc đó, Đại tá cũng đưa tay xuống súng. Hai cha con nhìn nhau, liếc mắt qua lại khắp phòng vài lần, thậm chí dùng ma pháp tìm kiếm để đảm bảo trong ống thông gió trên đầu không có kẻ nghe lén. Họ giờ mới làm vậy, vì từ nãy tới giờ cả hai chỉ nói những chuyện không mấy quan trọng, cũng như ngồi chửi Việt Tân. Nhưng từ giờ, câu chuyện mới vào phần quan trọng. Các âm mưu chính trị dần hiện hình, với sự đấu đá giữa những thế lực.
Ai cũng biết chiến thuật “Diễn biến hòa bình”. Kịch bản đó đã được nhiều nước dùng, đại khái như sau: Đầu tiên, một nước A nào đó sẽ bí mật tiêm nhiễm những tin bậy bạ cho các thành phần tiêu cực, có ý định chống đối chính quyền tại nước B. Sau đó, đối tượng hay nhóm đối tượng này sẽ bí mật tuyên truyền, lôi kéo những người bất mãn khác, hay kẻ nhẹ dạ cả tin, rằng chính quyền sở tại là tàn bạo, độc tài, thiếu dân chủ,… Sự tuyên truyền này như dịch hạch vậy, chúng xuất hiện khắp nơi, gây hậu quả nặng nề mà khó lòng nắm được nguyên nhân.
Sau khi đủ đông, nước A sẽ chỉ định kẻ lãnh đạo nổi dậy, bắt đầu với các cuộc biểu tình, hô hào đả đảo, sau đó sẽ tăng dần mức độ bạo lực lên. Cuối cùng, khi đám nổi loạn và quân chính phủ nước B đụng độ đổ máu, nước A sẽ lên tiếng can thiệp, giải quyết hay lật đổ độc tài gì đó mà đổ quân vào B. Lúc đó sẽ thành chiến tranh giữa hai bên, nước B đánh với nước A trực tiếp trên chiến trường và gián tiếp khi đối đầu với đám nổi loạn.
Bình thường A sẽ mạnh hơn B nhiều lần, và cũng phải chọn mấy nước “có vẻ” độc tài, lãnh đạo bị dân chúng ghét, sau đó sẽ kích động lật đổ chính quyền. Nếu A thắng, họ sẽ dựng lên một chính quyền bù nhìn thân mình và bắt đầu bí mật hút máu nước B. Vào thời phong kiến, điều này lộ liễu hơn, nhưng khi thế giới dần mở cửa, thì kiểu xâm lược đó, thường bị coi là “thuộc địa kiểu mới”, đang dần trở nên thịnh hành.
Trong bối cảnh hiện nay, ngài Tổng lãnh bảo, sẽ rất mạo hiểm nếu Việt Tân muốn kích động người dân thêm một lần nữa. Bài học bốn năm trước vẫn còn, toàn quốc đã đề cao cảnh giác với tất cả những thần phần tự xưng là mag tư tưởng “dân chủ, cấp tiến”. Người dân giờ có quyền bắt giữ và giao nộp thành viên của Việt Tân cho cơ quan cảnh vệ sở tại, hay cho dân phòng, và sau đó thì… không có sau đó nữa. Ngoài ra, Hiến pháp lẫn mọi bộ luật đều đã đặt Việt Tân ra ngoài vòng pháp luật, không còn được thừa nhận là công dân Đế quốc, bị tước quốc tịch và số căn cước. Thậm chí, Tổng lãnh U Minh còn đang ra đề nghị sửa luật, rằng nếu đánh một người đến chết mà chứng minh được đó là người của Việt Tân thì tất cả những ai tham gia đều được trắng án. Điều tương tự với tội hiếp dâm.
– Nhưng họa có điên mới nghe con điên ấy.
Tổng lãnh Linh Giang nguýt một cái rõ kêu. Đoạn, con trai ông nói ngay:
– Cả nước mình đều biết cô ta là người yêu nước tới mức cực đoan rồi, nên đổi luật kiểu đó dễ lại thành cái cớ cho Việt Tân ấy chứ!
– Đúng, về trước mắt đúng là như vậy.
Dừng một chút, ông lại tiếp:
– Nhưng ta không nghĩ nó là thể loại sẽ cao hứng đòi sửa luật như vậy. Hừm… Thôi, chuyện chính trị để Hội đồng lo! Giờ theo cha xuống kiểm tra động cơ nào.
Website đọc truyện online chất lượng hàng đầu việt nam, với nhiều truyện tiên hiệp, truyện kiếm hiệp, truyện ngôn tình, truyện teen, truyện đô thị được tác giả và dịch giả chọn lọc và đăng tải. Liên hệ về bản quyền/quảng cáo: [email protected]