Bà lắc đầu và Fritz đã gọi điện thoại nhờ ai đó tìm kiếm các án mạng cũ đã lưu hồ sơ.
“Tôi chắc chắn chúng tôi sẽ tìm được nó!” anh ta nói nhỏ. Về điều này thì Harry không nghi ngờ gì.
“Vậy là cảnh sát hoàn toàn tin rằng Gudbrand Johansen đã giết chết chính bác sĩ của mình?” Harry hỏi, quay về phía bà chủ nhà.
“Phải, đúng vậy. Christopher Brockhard sống một mình trong căn hộ tại bệnh viện. Cảnh sát nói rằng Johansen đã đập vỡ kính trên cửa ra vào phía ngoài, giết chết anh ấy khi đang ngủ ngay trên giường mình.”
“Sau đó chính mắt tôi đã thấy anh ấy!” bà đáp. “Anh cũng có thể muốn tin rằng tự tay bác sĩ đã làm thế với mình. Vết cắt rất ngọt.”
“Hừm. Vậy tại sao cảnh sát lại chắc chắn đó là Johansen?”
Bà cười.
“Phải, tôi có thể nói điều đó với anh - vì Johansen đã hỏi người bảo vệ xem Brockhard sống ở căn hộ nào, ông ta đã thấy anh ta đỗ xe ở bên ngoài và vào qua cổng chính. Sau đó anh ta chạy ra ngoài, khởi động xe và lái đi hết tốc lực về phía Vienna. Ngày hôm sau anh ta biến mất và không ai biết anh ta ở đâu. Chỉ căn cứ theo lệnh thì anh ta phải có mặt ở Oslo ba ngày sau đó. Cảnh sát Na Uy đã đợi anh ta nhưng anh ta không bao giờ xuất hiện.”
“Ngoài lời khai của người bảo vệ, bà có nhớ được cảnh sát có thêm bằng chứng nào khác không?”
“Tôi có nhớ được không ư? Chúng tôi đã nói về vụ án mạng này suốt mấy năm! Vết máu trên cửa kính khớp với nhóm máu của anh ta. Cảnh sát còn tìm thấy dấu vân tay trong phòng ngủ của Brockhard giống dấu vân tay trên chiếc bàn cạnh giường ngủ của Uriah và giường bệnh trong bệnh viện. Ngoài ra, anh ta còn có động cơ…”
“Thật không?”
“Phải, Gudbrand và Helena, hai người đem lòng yêu thương nhau. Nhưng cô ấy sẽ thuộc về Christopher.”
“Họ đính hôn rồi à?”
“Chưa, chưa. Nhưng Christopher si mê Helena đến điên cuồng. Ai cũng biết điều đó. Helena xuất thân từ gia đình giàu có nhưng đã lụn bại sau khi cha cô ấy ngồi tù, và một cuộc hôn nhân với gia đình Brockhard chính là cách giúp mẹ con cô ấy tự lực. Và anh biết nó thế nào rồi đấy - một phụ nữ trẻ với những nghĩa vụ nhất định với gia đình mình. Dù sao vào thời điểm đó, cô ấy đã làm thế.”
“Bà có biết hiện nay Helena Lang sống ở đâu không?”
“Nhưng anh vẫn chưa dùng bánh strudel kìa, anh bạn!” bà góa phụ thốt lên.
Harry ngoạm một miếng lớn, nhai rồi gật đầu tán thưởng với bà Mayer.
“Không,” bà đáp. “Điều đó thì tôi không biết. Khi chuyện vỡ lở ra rằng cô ấy đã ở bên cạnh Johansen vào đêm xảy ra vụ giết người, cô ấy bị điều tra, nhưng người ta không phát hiện được gì. Cô ấy đã thôi làm việc tại bệnh viện Rudolf II và dọn đến Vienna sống. Đúng, cô ấy là người phụ nữ mạnh mẽ, táo bạo. Thi thoảng tôi gặp cô ấy đi dạo trên những con phố ở đây. Nhưng vào giữa những năm năm mươi cô ấy đã bán nhà, sau đó tôi không còn nghe tin gì về cô ấy nữa. Có người nói rằng cô ấy đã đi nước ngoài. Nhưng tôi biết anh có thể hỏi ai - nếu cô ấy còn sống, nhớ kỹ cho. Beatrice Hoffmann, bà ấy làm người giúp việc cho gia đình Lang. Sau vụ án mạng, gia đình không còn đủ sức trả tiền công cho bà ấy nữa, nên có thời gian bà ấy vào làm việc tại bệnh viện Rudolf II.”
Fritz lại nói chuyện điện thoại.
Một con ruồi vo ve tuyệt vọng quanh cửa sổ. Nó đang bay theo logic vi mô của riêng nó, liên tục lao đầu vào cửa kính mà hoàn toàn chẳng hiểu vì sao. Harry đứng lên.
“Bánh strudel…?”
“Để lần sau, bà Mayer. Ngay bây giờ chúng tôi không có thời gian!”
“Tại sao thế?” bà hỏi. “Chuyện này đã xảy ra hơn nửa thế kỷ trước rồi. Nó có chạy đi đâu đâu mà.”
“À…” Harry nói, mắt nhìn con ruồi đen dưới những tấm rèm đăng ten trong ánh mặt trời.
• • •
Fritz nhận được cuộc gọi vào máy di động trên đường đến đồn cảnh sát. Lập tức anh ta làm một vòng quay đầu xe hoàn toàn bất ngờ, khiến những người lái xe đằng sau họ giật mình bấm còi.
“Beatrice Hoffman còn sống,” anh ta nói, tăng tốc qua những ánh đèn. “Bà ta ở một khu điều dưỡng cho người già trên đường Mauerbach. Chỗ đó là trên phía rừng Vienna.”
Tuốc bin chiếc BMW rít lên vui sướng. Những khối căn hộ nhường chỗ cho các ngôi nhà nửa bọc gỗ, các vườn nho và cuối cùng là rừng thưa rụng lá xanh ngắt. Nắng chiều đang nhảy nhót trên lá cây tạo một bầu không khí kỳ ảo khi họ tăng tốc dọc các đại lộ hai bên có hàng cây sồi và hạt dẻ.
Một y tá dẫn họ vào ra khu vườn lớn.
Beatrice đang ngồi trên chiếc ghế dài dưới bóng râm một cây sồi to, sần sùi. Một chiếc mũ rơm che kín khuôn mặt nhỏ, nhăn nheo. Fritz nói chuyện với bà bằng tiếng Đức, giải thích lý do họ đến đây. Bà già nghiêng đầu nở một nụ cười.
“Tôi chín mươi tuổi rồi,” bà nói bằng giọng run run. “Tôi vẫn còn muốn rơi nước mắt khi nghĩ đến cô Helena.”
“Bà ấy có còn sống không?” Harry hỏi bằng thứ tiếng Đức của cậu học trò. “Cụ có biết bà ấy đang ở đâu không?”
“Anh ta nói gì thế?” bà hỏi, bàn tay đưa lên sau vành tai. Fritz giải thích.
“Có!” bà đáp. “Phải, tôi biết Helena sống ở đâu. Cô ấy đang ngồi trên kia kìa.” Bà chỉ tay lên những ngọn cây.
Thế đấy, Harry nghĩ. Lão suy. Nhưng bà già này vẫn chưa nói xong.
“Cùng với Thánh Peter. Gia đình Lang là những tín đồ Thiên Chúa giáo ngoan đạo nhưng Helena là thiên thần trong gia đình ấy. Như tôi đã nói, lúc nào tôi cũng khóc khi nghĩ về chuyện đó.”
“Bà còn nhớ Gudbrand Johansen không?” Harry hỏi.
“Uriah,” Beatrice đáp. “Tôi chỉ gặp anh ta một lần. Một thanh niên đẹp trai, quyến rũ, nhưng không may lại ốm yếu. Ai tin được rằng một chàng trai tốt bụng, lịch thiệp như thế lại có khả năng giết người cơ chứ? Những cảm xúc của họ đã vượt tầm kiểm soát, phải, với Helena cũng vậy. Cô ấy không bao giờ đến được với anh ta, tội nghiệp. Cảnh sát không bao giờ tìm được anh ta, và cho dù Helena không bao giờ bị buộc tội gì, André Brockhard cũng chăm chăm sao để cô ấy bị ném khỏi bệnh viện.
“Cô ấy đã chuyển vào thành phố và làm việc thiện nguyện cho tổng giám mục, cho đến khi gia đình rơi vào túng thiếu trầm trọng, đến mức cô ấy phải tìm công việc được trả lương. Nên cô ấy bắt đầu nghề may vá. Trong vòng hai năm cô ấy tuyển dụng được mười bốn phụ nữ làm may vá trọn thời gian.
“Cha cô ấy được ra tù nhưng không thể tìm việc làm sau vụ bê bối ngân hàng Do Thái. Bà Lang chịu đựng sự sa sút của gia đình kém nhất. Bà ấy mất sau một trận ốm dài vào năm 1953, và ông Lang cũng ra đi mùa thu đó trong một tai nạn xe. Helena bán hết sản nghiệp vào năm 1955 rồi bỏ xứ mà đi, không giải thích bất kỳ điều gì với ai. Tôi còn nhớ được cái ngày ấy. Ngày 15 tháng Năm. Ngày nước Áo được giải phóng.”
Fritz nhận thấy nét mặt dò hỏi của Harry, bèn giải thích.
“Áo có hơi khác thường một chút. Ở đây chúng tôi không kỷ niệm ngày Hitler đầu hàng, mà là ngày quân Đồng minh rời khỏi đất nước.”
Beatrice nói về cách bà nhận được tin tức về cái chết của Helena.
“Chúng tôi không nhận được tin tức gì của cô ấy suốt hơn hai mươi năm. Bỗng một ngày tôi nhận được lá thư có đóng dấu bưu điện Parỉs. Cô ấy viết rằng mình đang đi nghỉ tại đó cùng chồng và con gái. Tôi nhận ra đó là một dạng như chuyến đi cuối cùng. Cô ấy không nói mình định cư ở đâu, đã kết hôn với ai hay mắc bệnh gì. Chỉ nói rằng cô ấy không còn sống được bao lâu nữa, và cô ấy nhờ tôi thắp cho cô ấy một ngọn nến tại Stephansdom. Helena đúng là một phụ nữ phi thường. Hồi cô ấy mới lên bảy, có lần cô ấy đã ra chỗ tôi trong bếp, và nhìn tôi với đôi mắt u sầu ấy. ‘Chúa đã tạo ra con người để yêu thương nhau’, cô ấy đã nói vậy.”
Một giọt nước mắt chảy xuống bên má nhăn nheo của bà già.
“Tôi sẽ không bao giờ quên điều đó. Bảy tuổi. Tôi nghĩ vào đúng lúc đó Helena đã quyết định sẽ sống cuộc đời mình như thế nào. Và cho dù cuộc sống đó nhất định không như cô ấy hình dung, và những thử thách của cô ấy thì nhiều và đau đớn, nhưng tôi tin chắc chắn rằng tận trong sâu thẳm trái tim mình, trong suốt cuộc đời mình - cô ấy vẫn tin rằng Chúa đã tạo ra con người để yêu thương nhau. Đó là con người cô ấy.”
“Cụ còn giữ lại lá thư đó không?” Harry hỏi,
Bà lau đi dòng nước mắt và gật đầu.
“Lá thư ấy tôi để trong phòng tôi. Cho phép tôi ngồi đây và hồi tưởng một chút. Sau đó chúng ta hẵng đến đó. À mà đêm nay sẽ là đêm nóng bức đầu tiên trong năm.”
Họ ngồi đó im lặng, lắng nghe tiếng những cành cây rì rào, tiếng những con chim nhỏ hót líu lo khi mặt trời lặn xuống sau khách sạn Sophienalpe, mỗi người nghĩ về những gì đã trải qua trước kia. Côn trùng vụt ra nhảy múa trong những cột ánh sáng dưới những cái cây. Harry nghĩ đến Ellen. Anh nhận ra một con chim mà anh có thể đoan chắc nó là chim ruồi anh đã trông thấy ảnh trong cuốn sách về các loài chim.
“Đi thôi!” Beatrice nói.
Căn phòng của bà nhỏ và giản dị, nhưng sáng và ấm cúng. Một chiếc giường kê sát bức tường sau, phủ đầy hình ảnh đủ mọi kích cỡ. Beatrice lục lọi mớ giấy tờ trong một ngăn kéo cái bàn trang điểm to.
“Tôi lưu giữ có hệ thống, nên tôi sẽ tìm thấy nó,” bà nói.
Tự nhiên thôi, Harry nghĩ.
Đúng lúc đó mắt anh chợt nhìn thấy một tấm ảnh lồng khung bạc.
“Lá thư đây rồi,” Beatrice nói.
Harry không đáp. Anh nhìn chằm chằm vào bức ảnh, không phản ứng cho đến khi nghe thấy giọng nói của bà vang lên ngay sau lưng.
“Tấm ảnh này được chụp khi Helena đang làm việc tại bệnh viện. Cô ấy thật xinh đẹp, đúng không?”
“Vâng, đúng vậy!” Harry đáp. “Có điều gì đó quen thuộc đến lạ lùng ở bà ấy.”
“Chẳng có gì lạ lùng về cô ấy đâu!” Beatrice đáp. “Họ đã vẽ hình cô ấy trên các ảnh thánh gần hai nghìn năm rồi.”
• • •
Đêm nay đúng là nóng bức. Nóng và ngột ngạt. Harry lăn qua trở lại trên chiếc giường bốn cọc, ném chăn xuống sàn, kéo hết ga giường xuống đất khi anh cố gắng xua đi hết những ý nghĩ và cố ngủ. Trong một lúc anh đã nghĩ đến minibar, nhưng lại nhớ mình đã tháo chìa khóa minibar khỏi chùm chìa khóa và để lại ở quầy tiếp tân. Anh nghe thấy những tiếng nói trong hành lang bên ngoài. Ai đó giật tay nắm cửa, anh ngồi bật dậy trên giường nhưng không ai bước vào. Tiếp theo là những giọng nói bên trong, hơi thở nóng hổi phả vào làn da anh, âm thanh xoàn xoạt của quần áo bị xé rách. Nhưng khi mở mắt ra, anh thấy những vệt sáng và biết trời đang có chớp.
Một tiếng sấm ầm ầm nghe như những tiếng nổ xa xa, trước tiên vọng đến từ một phần thành phố, sau đó lại một nơi khác. Anh đi ngủ lại và hôn cô, cởi bộ váy ngủ màu trắng của cô. Làn da cô trắng nõn, mát lạnh và không mịn màng do đổ mồ hôi, do khiếp sợ; anh ôm cô trong tay một lúc lâu, thật lâu cho đến khi cơ thể cô ấm lại. Ôm đến khi cô hồi sinh trong vòng tay anh, như một bông hoa được quay phim trong cả một mùa xuân, rồi chiếu lại ở tốc độ chóng mặt.
Anh tiếp tục hôn cô, lên cổ, mặt trong hai cánh tay, lên bụng, không đòi hỏi, hay thậm chí trêu ghẹo, mà là nửa muốn làm cô cảm thấy dễ chịu, nửa như đang mê man, như thể anh sẽ biến mất bất kỳ lúc nào. Và khi cô làm theo, ngập ngừng, vì cô nghĩ nơi họ sắp tới sẽ an toàn, anh tiếp tục dẫn cô cho đến khi họ tới một khung cảnh đến anh cũng không nhận ra. Anh quay lại nhưng đã quá muộn. Cô ném mình vào vòng tay anh, nguyền rủa anh, cầu xin anh và cào cấu anh bằng hai bàn tay mạnh mẽ, cho đến khi làn da anh bật máu.
Anh bị đánh thức bởi tiếng thở hổn hển của chính mình, phải quay người lại trên giường để chắc chắn anh vẫn ở một mình. Sau đó mọi thứ hòa vào trong cơn hỗn loạn của tiếng sấm, giấc ngủ và những cơn mộng mị. Anh thức giấc giữa đêm vì tiếng mưa rơi. Bước đến bên cửa sổ, anh nhìn chằm chằm xuống con phố dưới kia. Nước đang tràn ra trên các mép vỉa hè một chiếc mũ vô chủ trôi bồng bềnh theo dòng nước.
Khi Harry thức dậy nhờ tiếng chuông báo thức buổi sáng sớm, bên ngoài trời đã sáng và đường phố đã khô ráo.
Anh nhìn đồng hồ đeo tay trên chiếc bàn cạnh giường ngủ. Chuyến bay của anh về Oslo còn hai tiếng nữa.
Website đọc truyện online chất lượng hàng đầu việt nam, với nhiều truyện tiên hiệp, truyện kiếm hiệp, truyện ngôn tình, truyện teen, truyện đô thị được tác giả và dịch giả chọn lọc và đăng tải. Liên hệ về bản quyền/quảng cáo: [email protected]