Ở giữa vùng Hoài Thủy và Tứ Thủy, có một dải đất lớn hoang phế, trải dài hàng trăm dặm, toàn thành tan làng nát, quang cảnh như địa vực, người Hán ở phương Nam gọi nó là Biên Hoang, còn người Hồ ở phương Bắc gọi là Âu Thoát.
Tên gọi dù khác nhau nhưng đều khẳng định một điều rằng, mảnh đất này là nơi có một không hai trên đời. Đây là quê hương chôn rau cắt rốn của dân lành, cũng là miền đất hứa của những con người dám chấp nhận máu chảy đầu rơi, vô cùng hiểm nguy nhưng lại không ít cơ may vận hội. Nơi đây, kẻ vô danh có thể lập nên nghiệp lớn, anh hùng hào kiệt cũng có thể phơi thây.
Hơn thế nữa đây còn là nơi lý tưởng để các cấp triều đình dùng làm chốn ngoại giao bí mật, đối với kẻ bị săn đuổi thì đây lại là chốn an nhàn lánh nạn. Khi thì Biên Hoang là nguồn đào hoa của thời loạn lạc, khi lại là địa ngục trần gian. Không một nơi nào đáng sợ hơn Biên Hoang, cũng không có chốn nào hấp dẫn đáng yêu hơn nó. Biên Hoang là chốn mà ông Trời tạo nên cho những ai có bản lĩnh, biết cách chấp nhận những quy định nghiệt ngã để sinh tồn.Sự tồn tại lạ lùng này của Biên Hoang là nhờ lịch sử lâu đời và những xảo diệu của thời thế. Mối một trang sử nơi đây đều được viết lên bằng máu đào của giang hồ hào kiệt và nỗi khổ hạnh của bách tính trong vùng.
Khi nhà Tư Mã thống nhất được thiên hạ thì cư dân nơi đây mới có được những ngày tháng yên ổn làm ăn. Những ngày tháng thanh bình chẳng được bao lâu, Trung Hoa liên tiếp xảy ra biến cố “Bá vương chi loạn”, “Vĩnh Gia chi họa”, năm bộ tộc Hồ là Hung nô, Tiên Ti, Khương, Đế, Hạt nổi dậy chống lại nhà Tây Tấn làm nên một trong hai trận phong ba lớn nhất lịch sử, khiến cho vết thương ở mảnh đất này lại một lần nữa không thể liền da. Đến đời nhà Tấn thứ hai, Tấn triều buộc phải chạy tháo xuống phía nam làm thành cục diện nam bắc đối đầu. Vùng sông Hoài và sông Tứ vốn là nơi chịu nhiều tang tóc nặng nề, trở thành biên giới không thành văn của lưỡng triều Nam Bắc. Biên Hoang thành vùng đất nằm lọt giữa hai miền.Đó là tình thế của Biên Hoang hiện giờ.